Biến động thế giới dưới góc nhìn biến thiên địa từ

Diễn biến biến thiên từ năm 1960 đến 2005

Diễn biến biến thiên năm 2000 (bản rõ nét)

Diễn biến biến thiên năm 2005 (bản rõ nét)

Diễn biến biến thiên năm 2010 (bản rõ nét)

Diễn biến biến thiên năm 2015 (bản rõ nét)

Diễn biến biến thiên năm 2020 (bản rõ nét)

Diễn biến biến thiên năm 2020

Lạc thư và vật lý lượng tử- hằng số sommerfeld

TRONG ĐOẠN PHÂN TÍCH DƯỚI, LẠC THƯ VỚI HẰNG SỐ FINE STRUCTURE CONSTANT LIÊN QUAN CHẶT CHẼ VỚI NHAU QUA CON SỐ 137.

Nếu như ở vật lý vĩ mô, ta thấy sự xuất hiện của cặp số 16; thì tại vật lý lượng tử hay vi mô, ta thấy sự xuất hiện nhiều của cặp số 27.

với alpha=0.0072973525693 ≃ 1/137.035999084              

0.0072973525693 ≃ 1/137.035999084 với số thập phân = 03+50+84=137                                                                          

137 mod 10 = 7; 137 mod9= 2        (27)  729 tương ứng quái Tốn. Trong khi nếu đọc lại bài về quả dứa, tôi đã nói về số 831 tương ứng quái Càn khi quan sát các sự vật hiện tượng có kích thước mắt thường nhìn được tức vật lý vĩ mô. Vì 2 số trên nằm ở vị trí đối nghịch nhau trong 1 đường tròn, do đó thuyết lượng tử với thuyết tương đối vẫn rất khó để đi chung 1 lối, và lý thuyết hợp nhất được 2 thuyết trên vẫn chưa được tìm ra.  

The fine-structure constant α is of dimension 1 (i.e., it is simply a number) and very nearly equal to 1/137. It is the “coupling constant” or measure of the strength of the electromagnetic force that governs how electrically charged elementary particles (e.g., electron, muon) and light (photons) interact. Currently, the value of α having the smallest uncertainty comes from the comparison of the theoretical expression ae(theor) and experimental value ae(expt) of the anomalous magnetic moment of the electron ae. Starting in the 1980’s, a new and wholly different measurement approach using the quantum Hall effect (QHE) has caused excitement because the value of α obtained from it independently corroborates the value of α from the electron magnetic moment anomaly. The QHE value of α does not have as small an uncertainty as the electron magnetic moment value, but it does provide a significant independent confirmation of that value.

The quantity α was introduced into physics by A. Sommerfeld in 1916 and in the past has often been referred to as the Sommerfeld fine-structure constant. In order to explain the observed splitting or fine structure of the energy levels of the hydrogen atom, Sommerfeld extended the Bohr theory to include elliptical orbits and the relativistic dependence of mass on velocity. The quantity α, which is equal to the ratio v1/c where v1 is the velocity of the electron in the first circular Bohr orbit and c is the speed of light in vacuum, appeared naturally in Sommerfeld’s analysis and determined the size of the splitting or fine-structure of the hydrogenic spectral lines. Sommerfeld’s theory had some early success in explaining experimental observations but could not accommodate the discovery of electron spin. Although the Dirac relativistic theory of the electron introduced in 1928 solves the main aspects of the problem of the hydrogen fine-structure, α still determines its size as in the Sommerfeld theory. Consequently, the name “fine-structure” constant for the group of constants below has remained:

$$\alpha = \frac{e^2/\hbar c}{4 \pi \epsilon_0}= \frac{\mu_0 c e^2}{2 h}$$,

where e is the elementary charge, h bar = h/2π where h is the Planck constant, ε0 = 1/µ0c2 is the electric constant (permitivity of vacuum) and µ0 is the magnetic constant (permeability of vacuum). In the International System of Units (SI), c, ε0, and µ0 are exactly known constants.Our view of the fine-structure constant has changed markedly since Sommerfeld introduced it over 80 years ago. We now consider α the coupling constant for the electromagnetic force and similar to those for the other three known fundamental forces or interactions of nature: the gravitational force, the weak nuclear force, and the strong nuclear force. Further, since α is proportional to e2, it is viewed as the square of an effective charge “screened by vacuum polarization and seen from an infinite distance.”

According to quantum electrodynamics (QED), the relativistic quantum field theory of the interaction of charged particles and photons, an electron can emit virtual photons that can then emit virtual electron-positron pairs (e+, e). The virtual positrons are attracted to the original or “bare” electron while the virtual electrons are repelled from it. The bare electron is therefore screened due to this polarization. The usual fine-structure constant α is defined as the square of the completely screened charge, that is, the value observed at infinite distance or in the limit of zero momentum transfer. At shorter distances corresponding to higher energy processes or probes (large momentum transfers), the screen is partially penetrated and the strength of the electromagnetic interaction increases since the effective charge increases. Thus α depends upon the energy at which it is measured, increasing with increasing energy, and is considered an effective or running coupling constant. Indeed, due to e+ e and other vacuum polarization processes, at an energy corresponding to the mass of the W boson (approximately 81 GeV, equivalent to a distance of approximately 2 x 10-17 m), α(mW) is approximately 1/128 compared with its zero-energy value of approximately 1/137. Thus the famous number 1/137 is not unique or especially fundamental.

As indicated above, the value of alpha from the quantum Hall effect (QHE) has corroborated the value from the electron magnetic moment anomaly ae. The QHE is characteristic of a completely quantized two-dimensional electron gas. Such a gas may be realized in a high-mobility semiconductor device such as a silicon metal-oxide-semiconductor field-effect transistor (MOSFET) or GaAsAlxGa1-As heterojunction of standard Hall bar geometry in an applied magnetic flux density of the order of 10 T and cooled to about 1 K.

For a fixed current (typically 10 µA to 50 µA) through the device, there are regions in the curve of Hall voltage Uversus gate voltage for a MOSFET, or of Uvs for a heterojunction, where Uremains constant as either the gate voltage or is varied. These regions of constant Uare termed quantum Hall plateaus. In the limit of zero dissipation (zero voltage drop) in the direction of current flow, the Hall voltage-to-current quotient UH(i)/I or Hall resistance RH(i) of the ith plateau, where is an integer (we consider only the integral QHE), is quantized and given by RH(i) = UH(i)/I = RK/i where Ris the von Klitzing constant (after the discoverer of the QHE).

The theory of the QHE predicts, and the experimentally observed universality of RH(i) = UH(i)/I = RK/is consistent with the prediction, that Rh/e2µ0c/2α. Since in the SI µ0 = 4π x 10-7 N/A2 exactly, and = 299 792 458 m/s exactly as a result of the 1983 redefinition of the meter in terms of the speed of light, a measurement of Rin SI units (i.e., ohms) with a given uncertainty will yield a value of the fine structure constant α with the same uncertainty.

In practice, Ris measured in terms of a laboratory standard of resistance. Thus, the resistance of the standard must be determined in the SI unit ohm in a separate experiment using an apparatus known as a calculable cross capacitor in which the unknown resistance of a reference resistor is compared with the known impedance of the capacitor. The change in capacitance of such a capacitor, and hence its change in impedance, can be readily calculated since the change depends only on the position of a movable screen electrode whose displacement can be measured with a laser interferometer. In the NIST version of the experiment, the known 0.5 pF change in capacitance of the NIST calculable cross capacitor is used to measure the capacitances of 10 pF reference capacitors. These and a 10:1 bridge are then used in two stages to measure the capacitance of two 1000 pF capacitors, which are in turn used as two arms of a special frequency dependent bridge to measure the impedances of two 100 kiloohm resistors. The latter are then compared using a 100:1 bridge with a 1000 ohm transportable resistor, which in turn is compared using dc techniques with the resistance standard in terms of which Rhas been measured. The ac-dc resistance difference of the 1000 ohm resistor is determined by means of a special 1000 ohm coaxial resistor of negligible ac-dc resistance difference. All ac measurements are carried out at a frequency of approximately 1592 Hz (2πf = 104 rad/s).

The QHE has already yielded a value of α with a relative standard uncertainty of 24 x 10-9. When used to compare ae(theor) with ae(expt), it gives a fractional difference of (29 ± 24) x 10-9. Since the 29 x 10-9 fractional difference is only 1.2 times the 24 x 10-9 relative standard uncertainty of the difference, it is within statistically acceptable limits.

Lạc thư và chất diệp lục

Tất cả lý thuyết ở bài dưới có điểm trùng với lạc thư đó là cả 2 có liên quan đến con số 137. Công thức của diệp lục a: C55H72O5N4Mg có tổng số 55+72+5+4+1 = 137. 

Diệp lục a

Cấu trúc diệp lục a
Danh pháp IUPAC Diệp lục a
Tên hệ thống Magnesium [methyl (3S,4S,21R) -14-ethyl-4,8,13,18-tetramethyl -20-oxo-3- (3-oxo-3-{[(2E,7R,11R) -3,7,11,15-tetramethyl-2-hexadecen-1-yl] oxy}propyl)-9-vinyl-21-phorbinecarboxylatato(2−) –κ2N,N′]
Tên khác α-Chlorophyll
Nhận dạng
Số CAS 479-61-8
PubChem 6433192
Số RTECS FW6420000
Ảnh Jmol-3D ảnh
SMILES
InChI
Thuộc tính
Bề ngoài Xanh lá cây
Mùi Không mùi
Khối lượng riêng 1,079 g/cm³[1]
Điểm nóng chảy ~ 152,3 °C (425,4 K; 306,1 °F)[2]
phân hủy[1]
Điểm sôi
Độ hòa tan trong nước Không tan
Độ hòa tan Tan nhiều trong ethanolete
Tan trong ligroin,[2] axetonbenzenchloroform[1]
Các nguy hiểm
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa).

Diệp lục a là một dạng diệp lục cụ thể được sử dụng trong quá trình quang hợp oxy. Nó hấp thụ hầu hết năng lượng từ bước sóng của ánh sáng màu tím-xanh và đỏ cam.[3] Nó cũng phản chiếu ánh sáng xanh lục-vàng và điều đó góp phần vào màu xanh mà ta quan sát của hầu hết các loại thực vật. Sắc tố quang hợp này rất cần thiết cho quá trình quang hợp ở sinh vật nhân thựcvi khuẩn lam và prochlorophytes vì vai trò của nó là chất cho electron chính trong chuỗi chuyền điện tử.[4] Diệp lục a cũng chuyển năng lượng cộng hưởng trong phức hợp ăng-ten, kết thúc tại trung tâm phản ứng nơi có chất diệp lục đặc trưng P680 và P700.

Phân phối diệp lục a

Diệp lục a rất cần thiết cho hầu hết các sinh vật quang hợp để giải phóng năng lượng hóa học nhưng không phải là sắc tố duy nhất có thể được sử dụng cho quang hợp. Tất cả các sinh vật quang hợp oxy đều sử dụng diệp lục a, nhưng khác nhau về các sắc tố phụ như diệp lục b.[4] Diệp lục z cũng có thể được tìm thấy với số lượng rất nhỏ trong các vi khuẩn lưu huỳnh màu lục, một sinh vật quang dưỡng yếm khí.[5] Những sinh vật này sử dụng bacteriochlorophyll và một số chất diệp lục nhưng không tạo ra oxy.[5] Sự quang hợp anoxygenic là thuật ngữ được áp dụng cho quá trình này, không giống như quang hợp oxy, nơi oxy được tạo ra trong các phản ứng quang hợp của ánh sáng.

Cấu trúc phân tử 

Cấu trúc phân tử của diệp lục a bao gồm một vòng clorin, có bốn nguyên tử nitơ bao quanh một nguyên tử magie trung tâm, và có một số chuỗi bên khác và đuôi hydrocarbon.

Cấu trúc của diệp lục a phân tử cho thấy đuôi hydrocarbon dàiC55H72O5N4Mg

Vòng clorin

Clorin, cấu trúc vòng trung tâm của diệp lục a

Diệp lục a chứa một ion magnesi được bọc trong một cấu trúc vòng lớn được gọi là clorin. Vòng clorin là một hợp chất dị vòng có nguồn gốc từ pyrrole. Bốn nguyên tử nitơ từ vòm clorin và liên kết với nguyên tử magnesi. Magnesi trung tâm duy nhất quyết định cấu trúc một phân tử diệp lục.[6] Vòng porphyrin của bacteriochlorophyll được bão hòa, và thiếu xen kẽ các liên kết đôi và đơn gây ra sự biến đổi trong hấp thụ ánh sáng.[7]

Chuỗi bên

CH3 (đóng khung xanh) là nhóm methyl ở vị trí C-7 của diệp lục a

Các chuỗi bên được gắn vào vòng chlorin của các phân tử chất diệp lục khác nhau. Các chuỗi bên khác nhau mô tả từng loại phân tử chất diệp lục và làm thay đổi phổ hấp thụ ánh sáng.[8] Ví dụ, sự khác biệt duy nhất giữa diệp lục a và diệp lục b là diệp lục b có một aldehyde thay vì một nhóm methyl ở vị trí C-7.[8]

Đuôi Hydrocarbon

Diệp lục a có một đuôi chất kị nước dài, là nơi liên kết các phân tử protein khác kị nước trong màng thylakoid của lục lạp.[4] Sau khi tách ra khỏi vòng porphyrin, đuôi hydrocarbon dài này trở thành tiền chất của hai trạng thái sinh học, pristane và phytane, điều này quan trọng trong nghiên cứu địa hóa học và xác định nguồn dầu mỏ.

Sinh tổng hợp

Diệp lục a trao đổi chất sử dụng một loạt các enzym.[9] Gen mã hóa cho các enzym trên Mg-tetrapyrroles của cả hai bacteriochlorophyll và chlorophyll a.[9] Nó bắt đầu với axit glutamic, được chuyển thành một axit 5-aminolevulinic (ALA). Hai phân tử ALA sau đó được giảm xuống thành porphobilinogen (PBG), và bốn phân tử PBG sau đó được ghép lại, tạo thành protoporphyrin IX.[6] Khi hình thành protoporphyrin, Mg chelatase đóng vai trò như một chất xúc tác cho việc đưa Mg vào cấu trúc diệp lục a.[9] Con đường này sau đó sử dụng hoặc là một quá trình phụ thuộc ánh sáng, thúc đẩy bởi enzyme protochlorophyllide oxidoreductase. Protochlorophyllide là tiền thân của quá trình sản xuất diệp lục a phân tử, hoặc một quá trình độc lập với ánh sáng được thúc đẩy bởi các enzym khác, tạo thành một vòng tuần hoàn và giảm một vòng khác trong cấu trúc.[6] Gắn đuôi phytol hoàn thành quá trình sinh tổng hợp chất diệp lục.[10]

Phản ứng quang hợp

Hấp thụ ánh sáng

Quang phổ ánh sáng

Phổ hấp thụ của diệp lục a và chất diệp lục b. Việc sử dụng cả hai cùng nhau tăng cường kích thước của sự hấp thụ ánh sáng để tạo ra năng lượng.

Diệp lục a hấp thụ ánh sáng trong các bước sóng tímxanh lam và đỏ trong khi chủ yếu phản chiếu màu xanh lá cây. Phản xạ này cho chất diệp lục xuất hiện màu xanh lá cây của nó. Các chất màu quang hợp phụ kiện mở rộng phổ hấp thụ ánh sáng, tăng phạm vi bước sóng có thể được sử dụng trong quang hợp.[4] Việc bổ sung diệp lục b bên cạnh diệp lục a kéo dài phổ hấp thụ. Trong điều kiện ánh sáng yếu, thực vật tạo ra tỷ lệ lớn hơn là diệp lục b so với diệp lục a phân tử, làm tăng năng suất quang hợp.

Lạc thư, hệ thống lý thuyết nạp giáp và quả dứa

Trước đây, khi tôi nghĩ đến những manh mối đầu tiên để chứng minh hệ thống nạp giáp:

thì tôi nghĩ đến thiên văn, tức nhìn bầu trời và theo dõi quy luật vận động của 1 số hành tinh cụ thể, xâu chuỗi chúng lại để tìm ra lý thuyết nạp giáp. Lúc đó tôi đã thắc mắc, quái lạ vì sao chỉ lộ ra quy luật thiên văn của 4 quái càn khôn cấn tốn, tức các quái mang số chẵn 2,4,6,8 trong lạc thư thì lộ ra thật. Còn 4 quái mang số lẻ còn lại 1,3,7,9 gồm khảm ly chấn đoài thì không lộ ra dấu vết gì, mà chỉ được suy ngược ra sau khi đã giải xong các quái số chẵn trên.

Tuy nhiên, năm Mão 2023 là 1 năm đặc biệt lạ, khi tôi lại nhìn thấy cái quy luật lộ ra của 4 quái càn khôn cấn tốn trong nghiên cứu thực vật, đôi khi là đếm số lá và quy luật mọc lá tiếp theo của 1 cành cây, đôi khi là số mắt trên 1 quả, đôi khi là số cánh hoa trong 1 bông.

Và có lẽ quả dứa và quả thông là loại quả mà ứng nhất, dễ nhìn được ra luật của lạc thư nhất thể hiện trên hình sau:

Ưu điểm của nghiên cứu thực vật là gì: là bạn có thể mua 1 quả trái cây một cách dễ dàng với giá cả rất rẻ, và có thể nhìn trực quan bao lâu cũng được, cũng như không cần phải có nền tảng kiến thức gì như thiên văn, hay cách quan sát bầu trời, điều khá là khó với những bạn không kiên nhẫn trên con đường nghiên cứu huyền thuật.

Thực vật rất trực quan, ví dụ như quả dứa ở trên, bạn sẽ nhận thấy rằng chúng tạo ra các liên kết theo vòng xoáy, 1 chiều có 8 vòng thì đếm chiều ngược lại sẽ là 13 vòng, mà nếu nhin dọc thì có 21 đường thẳng. Cùng 1 quả dứa, cùng 1 sự vật, nhìn theo chiều khác nhau sẽ ra số khác nhau. Nhưng cả 3 số đó không tách biệt nhau, chúng có độ quan trọng như nhau và cấu nên quái: Càn 831 nếu nhìn theo hệ thống của lục thập hoa giáp. Và đại khí vayu nếu nhìn theo vệ đà cổ đại. Và thành sơn Càn 31 nếu nhìn theo hệ thống 24 sơn trong phong thủy.

Quy luật thiên văn trong hệ thống nạp giáp: Càn 6 nếu xét theo hệ thống lục thập hoa giáp, tiếp tục sẽ phải mất 20 năm và 26 năm sau thì mới gặp lại hiện tượng thiên văn như vậy; lúc đó sẽ thấy càn sẽ liên kết với giáp và cả ất; tiếp tục trộn 2 quái trên theo tiên thiên bát quái: càn và khôn để lấy giáp ất trộn với nhâm bính, lấy cha dương thì con dương đi cùng, mẹ âm thì con âm đi cùng do đó càn lúc này nạp giáp nhâm và khôn nạp ất quý.

Từ thiên văn, nạp giáp đến thực vật: Vấn đề này tương tự như quả dứa, nó là loài đã chọn quái càn trong 4 quái càn khôn cấn tốn để sinh tồn và phát triển, nó đã chọn hệ số 831 giống như rất nhiều các loài khác. Hệ thống thực vật dù hàng triệu loài thì rồi cũng sẽ thu lại trong các bộ hệ số mà ứng với tứ đại đất nước gió lửa và cũng ứng với 4 quái càn khôn cấn tốn.

1 số các ví dụ khác: hoa hướng dương chọn kết cấu dựa trên tứ chính tí ngọ mão dậu, kết cấu của số nhánh hoa gồm 21,34,55; nhưng tứ chính thì lại mod9 để thành 3,7,10 để ứng với quái đoài.

Những bánh xe thiên cơ(tam nguyên cửu vận và nhị nguyên bát vận)

Trước đây, khi tìm hiểu về bản chất của tam nguyên cửu vận, thì điều tối quan trọng là cần phải xác minh được tính đúng đắn của lục thập hoa giáp. Và cách dễ dàng nhất là tìm ra quy luật vận hành của năm đầu tiên của lục thập hoa giáp là giáp tý, tôi vẫn hay gọi là người cầm đèn, dẫn 1 đàn theo sau gồm 59 hoa giáp còn lại. Giống như cách nghĩ của người sumerian, 60 là số chia hết được cho rất nhiều số: 2,3,6,10,12,15, 20, v.v. bản chất của lục thập vì có phép chia hết đó mà chia ra cái thì là tam hợp, cái là tứ xung v.v. tôi đã chứng minh được chúng từ khá lâu, từ khâu đầu là quan sát thiên văn, rồi khâu tiếp theo là lập các phương trình liên kết, và khâu cuối là code tận gốc vấn đề và tạo thành 1 modul tự nó vận hành; và để bảng giá cho công trình như vậy cũng khá cao, khoảng vài chục tỷ ở phần shop, cũng là để chẳng muốn bán nó cho bất cứ ai với giá cao như vậy. Nó là kiến thức bất khả bán. Tuy vậy chưa phải là hết, tam nguyên cửu vận muốn thật sự hoàn thiện cần 2 bánh xe thiên cơ lớn hơn chi phối con đường vận hành của thiên can địa chi, khi quan sát bầu trời trong nhiều năm, tôi nhận thấy cần phải có 2 vòng: 17 và 27 cho mỗi 60 năm để tạo ra vòng kiểm soát lớn cuối cùng khiến cho mọi hành vi biến đổi của bản chất thiên văn của lục thập hoa giáp sẽ đều nằm trong nó. Tôi nghĩ khi đến bước này cũng là bước khó có thể tiến thêm được nữa, tuy vậy cuộc đời còn nhiều cái lạ lắm…

Mới đây, tôi tìm ra quy luật của cách phân chia còn lại trong phong thủy huyền không, cách chia nhị nguyên bát vận. Không giống như tam nguyên cửu vận, nhị nguyên bát vận không đi tìm đến cái có thể chia hết cho nhau, các vận cũng không đồng đều là 20 năm, mà ví dụ như quái vận khôn là 18 năm; quái vận càn là 27 năm. Nhị nguyên bát vận cũng chẳng cần theo chặt quy tắc thiên văn cố định như tam nguyên cửu vận trên bầu trời, mà nhị nguyên bát vận, hệ thống phân chia thời gian của huyền không đại quái của Trung Quốc lại có tư tưởng khoáng đạt y như hệ thống lịch của người Maya và Aztec. Đôi khi tôi gọi sự khoáng đạt này là sự dũng cảm, vì tam nguyên cửu vận- chính ra có cái gốc gác của nền văn minh Ai Cập; và nhị nguyên bát vận- lại không thấy cái bóng dáng này, hay chính xác ra là thoát khỏi cái bóng của văn minh Ai Cập- bởi sự miêu tả các hành tinh không theo luật lệ gì theo lẽ thông thường, mà bản chất là: ”XUYÊN TOÀN BỘ THẤT TINH VỀ 1 MỐI’.

Muốn xuyên toàn bộ mà thoát khỏi cái bóng của nhật nguyệt, thì bước đầu là phân tích quy luật của nhật nguyệt đến chính xác vài số sau dấu phẩy; rồi sau đó phá con số này để tìm con số tương đối khác xâu chuỗi được thất tinh, nếu thêm la hầu kế đô sẽ là cửu tinh. ‘XUYÊN THẤU ĐƯỢC TOÀN BỘ CỬU TINH’ là cái mà xuất hiện trong nhị nguyên bát vận của huyền không đại quái, là bản chất của hệ thống phân chia thời gian này.

  • Tam nguyên cửu vận nói về cái lớn, về tứ chính, cái khó thay đổi, cái chia đều và theo chu kỳ, cái lấy chậm mà lớn, tĩnh làm trọng tâm, cái lấy cương để đấu với cương, hoặc nhu để đấu với nhu.
  • Nhị nguyên bát vận nói về cái nhỏ, về tứ ngung, cái có thể thay đổi luồn lách thích nghi với thời thế, cái lấy nhanh và dịch chuyển làm trọng tâm, cái lấy nhu để khắc cương.

 

Representación del calendario Maya por medio de engranes

Kiến thức cơ bản về huyền không đại quái

 

Vậy, yếu tố nào có thể kết nối 2 hệ thống phân chia thời gian khổng lồ này: nhị nguyên bát vận và tam nguyên cửu vận. Vẫn rất lạ là cuộc đời lại cho tôi 1 đáp án, đúng là có thật, 1 ngôi sao A duy nhất vốn tưởng là đóng vai phụ trên bầu trời, lại trở thành cầu nối để biến hệ thống tam nguyên khớp chặp với nhị nguyên. Ngôi sao A này tôi để các bạn tự tìm tòi, tôi đưa ra 1 gợi ý: trong nhị nguyên bát vận, quái vận Đoài có thời gian là 24 năm, quái vận Cấn có thời gian là 21 năm; 2 số năm này không có nhiều ý nghĩa thiên văn, nhưng khi phối quái Đoài và Cấn ra 45 năm, thì 45 năm có ý nghĩa thiên văn đấy. Nó là manh mối để tìm ra A là ngôi sao gì. Ngôi sao A, với chỉ là 1 ngôi sao lẻ loi trên bầu trời, lại là chất gắn kết hệ thống bánh xe thiên cơ khổng lồ chi phối tam nguyên cửu vận và nhị nguyên bát vận chạy song song và vẫn khớp nhau; nó không phải là 1 ngôi sao luôn tạo ra cát lợi, mà cát và họa song hành, làm tốt thì được tốt, làm xấu chắc chắn phải gặp họa.

Bài viết này nói về những điều rất khó của thiên pháp, mong các bạn đọc như với tâm thế thể hiện niềm vui về sự lạ kỳ không thể tưởng tượng được về vẻ đẹp của tạo hóa.

 

 

Trống đồng Ngọc Lũ 1- (Phần 2)

1.Điểm tối quan trọng của trống đồng là: Tôn thờ mặt trời, mặt trời ở giữa, tỏa ra 14 tia. Và khi phân tích hình học của các tia này, tôi nhận ra về tính khẳng định vĩ độ, lãnh thổ tại nơi tạo ra chúng. Các tia trên sẽ luôn luôn tạo ra tỉ lệ về tứ giác mặt trời tại 1 vĩ độ cụ thể , đoạn code trong tính toán chúng miêu tả dưới đây (code tham khảo, chỉ đúng trong dải vĩ độ 15-23, lên vĩ độ cao có sai số lớn):
…..date_obj = datetime.datetime.strptime(solstice_date, “%Y-%m-%d”)
day_of_year = date_obj.timetuple().tm_yday
declination = math.radians(23.45) * math.sin(math.radians(360 * (284 + day_of_year) / 365))
cos_phi = -math.tan(math.radians(lat)) * math.tan(declination)
phi_sunrise = math.acos(cos_phi)
phi_sunset = -phi_sunrise
sunrise_time = datetime.datetime.strptime(solstice_date + ” 00:00:00″, “%Y-%m-%d %H:%M:%S”) + datetime.timedelta(hours=math.degrees(phi_sunrise) / 15)
sunset_time = datetime.datetime.strptime(solstice_date + ” 00:00:00″, “%Y-%m-%d %H:%M:%S”) + datetime.timedelta(hours=math.degrees(phi_sunset) / 15)
cos_azimuth_sunrise = (math.sin(declination) – math.sin(math.radians(lat)) * math.cos(phi_sunrise)) / (math.cos(math.radians(lat)) * math.sin(phi_sunrise))
cos_azimuth_sunset = (math.sin(declination) – math.sin(math.radians(lat)) * math.cos(phi_sunset)) / (math.cos(math.radians(lat)) * math.sin(phi_sunset))
azimuth_sunrise = math.degrees(math.acos(cos_azimuth_sunrise))
azimuth_sunset = 360 – math.degrees(math.acos(cos_azimuth_sunset))
a=90-azimuth_sunrise
b=math.tan(math.radians(a))
# Print the results
print(“góc lệch là:”,a)
print(f”tỉ lệ chiều dài/chiều rộng:”,1/b)
2. Đã nói về Mặt Trời tại vòng trong, thì vòng ngoài sẽ nói về Mặt Trăng với 18 nhóm hình chim lạc ứng với chu kỳ saros hơn 18 năm một chút. Hoặc nếu xét trong 1 năm quan sát mặt trời, thời cổ đại với 2 đại diện lớn là Ai Cập và người da đỏ Maya vẫn thường sử dụng công thức 360 ngày là 1 năm dương lịch + thêm hơn 5 ngày 1 chút không tính trong công thức đó, gọi là 5 ngày không được xét trong lịch nhưng vẫn được tính thực tế để bộ lịch dương lịch vẫn khớp với chuyển động của mặt trời.
Nhật nguyệt là đủ kết cấu âm dương, các vòng còn lại ở giữa có vẻ là miêu tả giá trị văn hóa, lối sống theo chu kỳ của nhật nguyệt.

Góc nhìn về sự sắp xếp các cột trong Karnak temple khi kết hợp ma phương 9×9

Thường thì, các ma phương 3×3 hay cao hơn đã được âm thầm ẩn tàng trong các nền văn minh tối cổ như Ai Cập hay thậm chí cổ hơn nữa, chỉ có khác là cách phân tích, cách tìm ra quy luật của chúng có đôi phần khác biệt so với những cái còn lưu giữ được đến ngày nay. Tôi chắc chắn rằng lạc thư hay ma phương 3×3 hay các  bậc cao hơn đã được sử dụng nhiều tại khắp lục địa Âu-Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Hồi giáo và Châu Âu, tuy nhiên với nền văn minh Ai Cập cổ đại, tôi không có nhiều tư liệu để chứng minh chúng, khi nhìn vào kiến trúc của đền thờ Karnak còn sót lại, tôi nghĩ rằng cần phải áp dụng thử các kỹ thuật phân tích lạc thư vốn có còn sót lại vào sự sắp xếp của các cột đá trong đền thờ Karnak để tìm ra các quy luật khả dĩ có thể tồn tại, và nội dung của kỹ thuật này như sau:

Từ việc sử dụng lường thiên xích cho các ma trận bậc cao hơn 3 và là số lẻ, ta có với ma phương 9×9 sẽ được tính như sau:

1.Từ ma phương 9×9 ta có:

37 78 29 70 21 62 13 54 5
6 38 79 30 71 22 63 14 46
47 7 39 80 31 72 23 55 15
16 48 8 40 81 32 64 24 56
57 17 49 9 41 73 33 65 25
26 58 18 50 1 42 74 34 66
67 27 59 10 51 2 43 75 35
36 68 19 60 11 52 3 44 76
77 28 69 20 61 12 53 4 45

2. Tiến hành modulus các dãy số trên cho 9,ta có:

1 6 2 7 3 8 4 9 5
6 2 7 3 8 4 9 5 1
2 7 3 8 4 9 5 1 6
7 3 8 4 9 5 1 6 2
3 8 4 9 5 1 6 2 7
8 4 9 5 1 6 2 7 3
4 9 5 1 6 2 7 3 8
9 5 1 6 2 7 3 8 4
5 1 6 2 7 3 8 4 9

3. Vì các cột trong đền karnak có quy luật, mỗi bên có thể chia làm 3 phần: Phần chính gồm 9×6 cột, tiếp theo là 1 dãy cột có 7 hàng, và dãy cột lớn ở trung tâm có 6 hàng, do không biết đâu là trên hay dưới trong 1 ma phương, ta có tổng hợp 4 lựa chọn sau:

1 6 2 7 3 8 4 9
6 2 7 3 8 4 9 5
2 7 3 8 4 9 5 1
7 3 8 4 9 5 1 6
3 8 4 9 5 1 6 2
8 4 9 5 1 6 2 7
4 9 5 1 6 2 7
9 5 1 6 2 7
5 1 6 2 7 3

Tổng của bảng này là 334

6 2 7 3 8 4 9 5
2 7 3 8 4 9 5 1
7 3 8 4 9 5 1 6
3 8 4 9 5 1 6 2
8 4 9 5 1 6 2 7
4 9 5 1 6 2 7 3
5 1 6 2 7 3 8
6 2 7 3 8 4
2 7 3 8 4 9

Tổng của bảng này là 338. Với lối xếp các số theo cột kiểu từ trên xuống dưới, ta có hiệu số của 2 bên trái phải là 338-334=4.

2 7 3 8 4 9 5
7 3 8 4 9 5 1
7 3 8 4 9 5 1 6
7 3 8 4 9 5 1 6 2
3 8 4 9 5 1 6 2 7
8 4 9 5 1 6 2 7 3
4 9 5 1 6 2 7 3 8
9 5 1 6 2 7 3 8 4
5 1 6 2 7 3 8 4 9

Tổng của bảng là 388

1 6 2 7 3 8 4
6 2 7 3 8 4 9
2 7 3 8 4 9 5 1
7 3 8 4 9 5 1 6 2
3 8 4 9 5 1 6 2 7
8 4 9 5 1 6 2 7 3
4 9 5 1 6 2 7 3 8
9 5 1 6 2 7 3 8 4
5 1 6 2 7 3 8 4 9

Tổng của bảng là 379. Hiệu số của 2 bên trái phải với lối từ dưới lên trên là: 388-379= 9

Dù hiệu số của 2 cách sắp xếp này ở trường hợp trên hay dưới, ta có 2 con số: 4 và 9. 4-9 theo nền văn minh vệ đà khi sử dụng ma phương 3×3 thì tổ hợp 4-9 là hành lửa agni, tương ứng với mặt trời, ngọn lửa, là Pháp (dharma), là hành khởi của hệ thống chiêm tinh. Với nền văn minh Trung Quốc, ma phương 3×3 gọi là lạc thư thì 9 là hành hỏa.  Cuối cùng, thì dù ở nền văn minh tối cổ như Ai Cập hay các nền văn minh khác khai phá muộn hơn một chút, 4-9 vẫn là con số của ngọn lửa, sử dụng cho mục đích tôn thờ ngọn lửa, như những câu đầu tiên trong kinh Rig Veda cũng là tôn thờ ngọn lửa, sự khởi đầu của hệ thống tâm linh trong Rig Veda không phải tự nhiên nói đầu tiên là về lửa đại, bởi lửa khác với các đại còn lại  bởi sự đơn giản, thuần khiết và quan trọng là khơi dậy những rung động mạnh mẽ nhất về sức sống- the life vibration- vui vẻ với cuộc sống, và muốn sống; lửa đại là liều thuốc mạnh hơn cả đất đại hay nước đại khi dùng để chữa các bệnh về tâm lý, về sự mất đi cái rung động sức sống bên trong 1 cá nhân, khiến cho họ cạn kiệt mục đích sống, khiến cho ngày nay tỉ lệ liên quan đến tự tử tăng cao, dù đôi khi lý do chẳng phải vì lo cơm ăn áo mặc như xưa. Tôi nghĩ về những bộ lạc ngày xưa, khi kiếm được thức ăn, họ vui vẻ chạy vòng quanh nhảy múa trên đống lửa ở giữa, với thức ăn đang được nướng ở trên, không nên nghĩ rằng đó không phải là 1 pháp, đó chính là pháp. Khi ngọn lửa trở thành trung tâm của sự kết nối giữa người với người, nó có tác dụng chữa lành cả thể chất, tâm lý và tâm linh của những người trong vòng tròn đó.

 

Kiến trúc cổ đại (p3)- karnak temple – đền thờ thần Amun-Ra của Ai Cập cổ đại

Karnak Temple là một khu đền đài cổ của Ai Cập nằm ở thành phố Luxor, bên bờ phía đông của sông Nile ở miền nam Ai Cập. Đây là một trong những khu đền đài tôn giáo lớn nhất và quan trọng nhất trên thế giới, được xây dựng trong suốt hơn 1500 năm.

Khu đền đài rộng hơn 100 hecta và bao gồm nhiều đền đài lớn, nhà thờ, cửa chính, tượng đài và các công trình khác, tất cả đều được dành tặng cho việc thờ phượng các vị thần và nữ thần của Ai Cập cổ đại. Đền chính tại Karnak được dành tặng cho vị thần Amun-Ra, vị thần cao nhất của Ai Cập cổ đại, và là trung tâm hoạt động tôn giáo ở thành phố Thebes (hiện nay là Luxor) trong hơn 2000 năm.

 

Sơ đồ phân tích toán học và thiên văn đền thờ karnak- (phân tích bởi Duy Tuấn)

Note: sự xuất hiện của góc 27,54, 108 khi modulus cho 9 ta có số trọng tâm là 9. Và tuy là con số toán học, chúng lại trùng hợp với các quy luật thiên văn tại vĩ độ của công trình tâm linh trên tại vĩ độ 25.7 độ Bắc, khá gần với vĩ độ của Hà Nội 21 độ Bắc.

Obetlisk tại đền thờ Karnak

Sơ đồ phân tích thủy động lực do sông Nin tương tác với đền.

Thần Amun-Ra là một trong những vị thần quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại, là vị thần bảo vệ cho các vị vua pharaon, được tôn kính và thờ phượng trong suốt hơn 2000 năm. Theo truyền thuyết, Amun-Ra được xem như là vị thần cao nhất, vị thần của mặt trời, được tôn kính là vị thần ban tặng sự sống và sinh sản. Trong hình dạng của một người đàn ông có đầu vịt, mặt trời đăng trên đầu, Amun-Ra được thờ phượng ở khắp nơi trên đất nước Ai Cập cổ đại.

Mô hình vector thủy lực thể hiện cho sự hội tụ của 2 vùng tả ngạn và hữu ngạn sông nin đổ về Luxor.

tác giả có sử dụng chatgpt để code hóa tính toán cho vĩ độ trên, nhưng kết quả ra sai số +-3 độ so với con số 27 độ, do đó cần thêm thời gian để chatgpt có thể tự động code chính xác các phương trình phân tích toán học và thiên văn ứng dụng cho khoa học cổ đại.

Kiến trúc cổ đại (p2)- nền văn minh maya

Dù ở phía bên kia bán cầu, các công trình kiến trúc tâm linh của lục địa châu Mỹ vẫn giữ được những quy luật gốc khi họ đã xây dựng hoàn toàn vào các quy luật thiên văn, toán học như tỉ lệ phi… tương tự như các nền văn minh La mã, Ấn Độ, Khmer và Trung Quốc. Nếu có thể nói rõ hơn về sự giống nhau, thì kim tự tháp Chichen Itza giống hệt kiến trúc byzantine là Hagia sophia mosque khi quy luật thiên văn được đặt vào biến thể cửa chính và góc tường phía đối diện tạo ra 1 góc khoảng 120 độ(góc độ trên có thể biến thiên và phụ thuộc vào biến số vĩ độ của công trình).