Sử dụng dữ liệu địa chất tọa độ WGS84 vào google maps

Hệ tọa độ sử dụng cho google maps thường được sử dụng là hệ tọa độ địa lý Lalitude, Longlitude; trong khi đó hệ thống dữ liệu của các ngành khoa học trái đất thường dùng project VN2000, WGS84. Do đó, cần phải chuyển hệ thống tọa độ để cho kết quả chính xác. Sau khi chuyển hệ, chúng ta có được dữ liệu về hệ thống đứt gãy, đới phun trào magma, đặc điểm và tuổi của các hệ tầng đá gốc, hệ thống sông suối thủy văn,v.v. nhằm phục vụ cho quá trình xem xét vị trí loan đầu của 1 vùng đất.

 

Posted by Duy Tuan on Tuesday, March 24, 2020

Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: 1 ngườiKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: ngoài trời

Từ số tự nhiên đến lạc thư

Có lẽ để mọi người hiểu rõ hơn về con đường kết nối của toán học đến huyền học, thì 1 phương pháp tương đối đơn giản là đưa ra mối liên hệ sâu xa giữa 1 bên là bảng đếm số mà học sinh lớp 1 cũng đếm được: đó là đếm số từ 1 đến 108. Và hai là: bảng ma phương 3×3 lạc thư, nền tảng của mọi môn phong thủy hay các môn huyền học khác không chỉ của trung hoa mà cả ấn độ, lưỡng hà và phương tây. Các yantra cổ đại của ấn độ rất hay khi hệ thống bảng của họ có 1 nửa dưới thể hiện cho lạc thư, nửa trên lại thể hiện cho số tự nhiên với ranh giới là đường chéo 258 trong bảng lạc thư- ứng với trục Cấn- khôn của la bàn phong thủy 24 sơn. Điều đó có ý nghĩa gì, điều đó muốn nói lên rằng hệ số đếm tịnh tiến như vậy khi cộng lại với nhau tức mod 9, (1 bài viết khá lâu trước đó tôi nói là mod 10 là lạc thư và mod 9 là hà đồ) tại phần nửa trên của các yantra là thể hiện cho hà đồ, hà đồ là thể hiện các số tịnh tiến như đếm số của học sinh lớp 1 vậy, nửa dưới là lạc thư. Từ đó, tôi nhận ra rằng chắc chắn có dấu vết khi thiết lập bảng ma trận 3×3 cho số tự nhiên và tìm manh mối logic về lạc thư chuyển hóa ra sao khi cho số tự nhiên chạy liên tục từ 1 đến vô cùng. Các ảnh bên dưới thể hiện từng bước 1 cho sự biến đổi từ ma trận 3×3 số tự nhiên khi biến chuyển thành hình thoi (pháp toán học cổ đại có 1 pháp gọi là kim cương hóa ma trận,nó đơn giản thôi tức là nhìn nghiêng 1 góc 45 độ 1 hình vuông thì trật tự các số xếp thành hình thoi) sau đó 4 số chẵn âm 2,4,6,8 đứng yên; 4 số dương lẻ 13 79 xoay vần ngược nhau 180 độ. Sau đó, ép 4 số dương lẻ 1379 này vào sao cho thành hình vuông thì chúng ta có gì: lạc thư xuất hiện. Tuy nhiên, ta không thể hiện số lạc thư thông thường, ta phải thực hiện phép đảo ngược 45 độ lại 1 lần nữa để ra bảng của hình 5, đó là bảng ta sẽ sử dụng để truy tìm tính quy luật số học của cột lạc thư so với quy luật tịnh tiến đếm số ở cột hà đồ.
Cái hay nhất của nó là, khi ta cho chạy số từ 1 đến 9 thì xuất hiện nền lạc thư. Khi cho chạy tiếp từ số 10 đến 18 mod 10, ta thấy xuất hiện số 0, ta gọi là số 0 sinh ra đầu tiên tại vị trí tây bắc của ma phương 3×3. Tiếp tục tịnh tiến số, ta thấy số 0 sẽ chạy theo đúng đường lường thiên xích. Đến số tự nhiên 90, con số 0 đã chạy đến cuối con đường của nó. Đến số 99, số 0 biến mất, chỉ còn lại cái nền cũ là lạc thư. Và đến số 108, số 0 hồi sinh trở lại. Các con số lớn hơn 108 thể hiện vòng lặp lại của số 0, cho nên đến số 108 là dừng cho 1 chu trình sinh diệt của số 0. Ý nghĩa toán học của sự tịnh tiến số tự nhiên (hà đồ) cuối cùng lại có sự trùng khít với chu kỳ sinh ra, phát triển, chết đi và lại sinh ra (theo quỹ đạo lường thiên xích) của 1 con số đại diện là số 0 đôi khi tôi thấy như cuộc đời của 1 con người vậy. Trong phật giáo có nói đến 108 vị phật, 108 nỗi khổ của đời người. Trong văn hóa lưỡng hà, 108 thể hiện cho 108 pada vùng trời dùng cho vedic astrology; trong các trận đồ bánh xe năng lượng của văn minh maya có 36 số x3 cũng bằng 108. Nó là 1 con số có lẽ còn nhiều ý nghĩa hơn thế về mặt huyền học mà tôi chưa hiểu hết được, nhưng về mặt toán học, mối liên kết này rất đáng để suy ngẫm.

Không có mô tả ảnh.

Bc 2: xoay 1 góc 45 độ, gọi là pháp kim cương hóa ma trận

Không có mô tả ảnh.

Bc 3:Từ hình kim cương, số chẵn âm tĩnh giữ nguyên, số lẻ dương di động đảo chiều 1 thành 9, 3 thành 7

Không có mô tả ảnh.

Bc 4: nén 4 số dương lại thì ta ra ma trận lạc thư như cũ

Không có mô tả ảnh.

Bc 5:  ta dùng hệ số này 9 2 7; 456; 381. Nó là ma phương khi được xoay 45 độ về như cũ

Trong hình ảnh có thể có: vẽ

Bc 6: từ đó, 1 cột gọi là số tự nhiên tịnh tiến học sinh lớp 1 vẫn đếm số, tôi gọi là cột hà đồ.
Cột còn lại là cột lạc thư, như hình trướcKhông có mô tả ảnh.

tiếp tục tịnh tiến số, hãy nhìn sự vận hành thay đổi của số 0Không có mô tả ảnh.

Cuối cùng, bảng hoàn chỉnh về hành trình sinh tử của số 0 sau 108 số tự nhiên

Không có mô tả ảnh.

Học thuyết kiến tạo mảng và sự sống

Tại sao lớp vỏ nứt của trái đất có thể cần thiết cho sự sống (dịch từ tài liệu Tiếng Anh)

Cuộc sống cần nhiều hơn chỉ là nước. Những khám phá gần đây cho thấy kiến ​​tạo mảng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng sự sống trên Trái đất. Những phát hiện mang theo những kết quả lớn cho việc tìm kiếm sự sống ở nơi khác trong vũ trụ.
Hình ảnh một thợ lặn giữa hai mảng kiến ​​tạo ở Silfra.  reykjasta.  Nước Iceland

Khe nứt Silfra ở Iceland tạo thành một phần ranh giới giữa các mảng kiến ​​tạo Bắc Mỹ và Á-Âu. Hai mảng trôi cách nhau khoảng 2 cm mỗi năm.

Nhìn từ xa, không thấy rõ được rằng Trái đất tràn đầy sự sống. Bạn phải đến gần để nhìn thấy những khu rừng lớn nhất, và gần hơn nữa để thấy công việc của con người, chứ đừng nói đến vi khuẩn. Nhưng ngay cả từ không gian, hành tinh này dường như còn sống. Vùng đất của nó bị chia tách thành bảy lục địa, được ngăn cách bởi vùng nước rộng lớn. Bên dưới những đại dương đó, ở độ sâu vô hình của hành tinh chúng ta, mọi thứ thậm chí còn sống động hơn. Trái đất đang tự nuốt, tự làm tan chảy và làm cho nó trở lại.

Một tá các mảng cứng, lạnh lẽo từ từ trượt và trượt trên lớp ranh giới nóng chảy bên trong của Trái đất, hút chìm bên dưới nhau và thỉnh thoảng va chạm. Quá trình kiến ​​tạo mảng này là một trong những đặc điểm địa chất đặc trưng của Trái đất. Con người chủ yếu trải nghiệm nó thông qua các trận động đất và, hiếm khi hơn, núi lửa. Dung nham hiện đang phun ra từ núi lửa ở Hawaii – kết quả của một điểm nóng lớp phủ sâu – có liên quan đến hoạt động kiến ​​tạo.

Hiểu biết kiến ​​tạo mảng là một chìa khóa quan trọng để hiểu hành tinh của chúng ta và khả năng cư trú của nó. Làm thế nào để bạn tạo ra một hành tinh có thể ở được, và sau đó duy trì sự sống trên nó hàng tỷ năm? Said Katharine Huntington , một nhà địa chất tại Đại học Washington. Kiến tạo mảng đĩa là những gì điều chỉnh bầu không khí của chúng tôi trong thời gian dài nhất. Bạn cần điều đó để có thể giữ nước ở đây, giữ ấm, để duy trì sự sống.

Hình ảnh trên không cho thấy một dòng sông dung nham chảy qua vùng đất.

Dung nham từ núi lửa Kilauea của Hawaii đã phá hủy hàng chục ngôi nhà trong tháng qua. Núi lửa là kết quả của cùng một điểm nóng sâu thẳm hình thành nên chuỗi đảo Hawaii.

Trong vài năm qua, các nhà địa chất và nhà sinh vật học đã ngày càng gắn kết kiến ​​tạo mảng với mọi thứ khác làm cho Trái đất trở nên độc đáo. Họ đã chỉ ra rằng bầu khí quyển của Trái đất có tuổi thọ, các thành phần và nhiệt độ giống như Goldilocks cực kỳ ổn định – không quá nóng, nhưng không quá lạnh – để tái chế lớp vỏ của nó. Các đại dương trên trái đất có thể không tồn tại nếu nước không được định kỳ lắng xuống bởi lớp phủ của hành tinh và sau đó được giải phóng. Nếu không có kiến ​​tạo mảng thúc đẩy việc tạo ra đường bờ biển và chuyển động của thủy triều , đại dương có thể cằn cỗi, với các chất dinh dưỡng mang lại sự sốngxuống hạng mãi mãi đến độ sâu stygian. Nếu kiến ​​tạo mảng không buộc các phiến đá lặn xuống bên dưới trái đất và quay trở lại Trái đất, một quá trình gọi là hút chìm, thì đáy biển sẽ hoàn toàn lạnh lẽo và không có hóa học đa dạng, nghĩa là cuộc sống có thể chưa bao giờ được thực hiện ngay từ đầu. Một số nhà nghiên cứu thậm chí tin rằng nếu không có sự di chuyển của các lục địa, sự sống có thể không phát triển thành các dạng phức tạp .

Vào năm 2015, James Dohm và Shigenori Maruyama của Viện Công nghệ Tokyo đã đặt ra một thuật ngữ mới cho sự phụ thuộc lẫn nhau này: Ba điều kiện có thể sống được . Cụm từ này mô tả một hành tinh có nguồn nước dồi dào, bầu khí quyển và một vùng đất – tất cả đều trao đổi và lưu thông vật chất – như một điều kiện tiên quyết cho sự sống.

Tuy nhiên, việc hiểu kiến ​​tạo mảng ảnh hưởng đến sự tiến hóa như thế nào – và liệu đó có phải là thành phần cần thiết trong quá trình đó hay không – xoay quanh việc tìm câu trả lời cho một số câu hỏi nóng nhất trong khoa học địa lý: làm thế nào và khi nào các mảng bắt đầu di chuyển. Tìm hiểu tại sao hành tinh này có lớp vỏ di động có thể nói với các nhà địa chất không chỉ về hành tinh này, mà còn về tất cả các hành tinh hoặc mặt trăng có bề mặt rắn, và liệu chúng có thể có sự sống nữa không.

Từ núi đến hào

Vào năm 2012, đạo diễn phim James Cameron đã trở thành người đầu tiên lặn một mình trong suốt chặng đường xuống sâu nhất trên Trái đất . Anh ta chạm xuống 35.756 feet dưới bề mặt đại dương trong Challenger Deep, một vùng trũng trong rãnh Mariana, bản thân nó là một máng lớn hơn nhiều ở giao điểm của hai mảng kiến ​​tạo. Cameron đã thu thập các mẫu trên khắp rãnh, bao gồm bằng chứng về sự sống phát triển trên các đường nối của hành tinh chúng ta.

Khi mảng Thái Bình Dương được kéo xuống lớp phủ của Trái đất, nó nóng lên và giải phóng nước bị mắc kẹt trong đá. Trong một quá trình gọi là serpentinization, bọt nước ra khỏi tấm và biến đổi các tính chất vật lý của lớp phủ trên. Sự biến đổi này cho phép khí mêtan và các hợp chất khác thấm qua lớp phủ qua các suối nước nóng dưới đáy đại dương lạnh lẽo.

Các quá trình tương tự trên Trái đất sơ khai có thể đã cung cấp các thành phần thô cho quá trình trao đổi chất, có thể đã tạo ra các tế bào sao chép đầu tiên. Cameron đưa bằng chứng sau của hậu duệ hiện đại tế bào như vậy: Thảm vi khuẩn, khối của vi khuẩn phát triển mạnh dưới gần bảy dặm của nước, nơi ánh sáng mặt trời không thể xuyên qua và áp lực là hơn 1.000 lần so với mực nước biển.

Thật sự thú vị, bởi vì nó liên kết kiến ​​tạo mảng với cuộc sống, Keith Klepeis , nhà địa chất học tại Đại học Vermont cho biết. Phần mềm cung cấp cho chúng tôi ý tưởng về những gì cần tìm ở nơi khác trong hệ mặt trời. Nó cho chúng ta ý tưởng về những gì đầu đời có thể có trên Trái đất.

Hình ảnh thảm vi khuẩn đóng lên.

Một tấm thảm vi sinh vật màu trắng bao phủ san hô màu vàng gần núi lửa Đông Diamante trong Vành đai lửa Thái Bình Dương. Tấm thảm cung cấp năng lượng hóa học của lỗ thông thủy nhiệt.Cuộc thám hiểm Vành đai Thái Bình Dương 2004.Văn phòng thám hiểm đại dương của NOAA;Tiến sĩ Bob Embley, PMAA NOAA, Nhà khoa học trưởng.

Chuyến lặn lập kỷ lục của Cameron không phải là chuyến thám hiểm duy nhất chứng minh mối liên hệ giữa kiến ​​tạo mảng và đời sống đại dương. Nghiên cứu gần đây liên quan đến hoạt động kiến ​​tạo mảng với sự bùng nổ của tiến hóa được gọi là vụ nổ Cambrian , 541 triệu năm trước, khi một loạt các cuộc sống mới, phức tạp xuất hiện.

Vào tháng 12 năm 2015, các nhà nghiên cứu ở Úc đã công bố một nghiên cứu về khoảng 300 lõi khoan từ các vị trí đáy biển trên toàn cầu, một số mẫu chứa 700 triệu năm tuổi. Họ đã đo phốt pho cũng như các nguyên tố vi lượng như đồng, kẽm, selen và coban – những chất dinh dưỡng cần thiết cho mọi sự sống. Khi những chất dinh dưỡng này có nhiều trong các đại dương, chúng có thể châm ngòi cho sự phát triển của sinh vật phù du nhanh chóng. Các nhà nghiên cứu, dẫn đầu bởi Ross Large thuộc Đại học Tasmania, đã chỉ ra rằng các yếu tố này tăng nồng độ theo một trật tự cường độ khoảng từ 560 đến 550 triệu năm trước.

Large và nhóm của ông cho rằng kiến ​​tạo mảng đã thúc đẩy quá trình này. Núi hình thành khi các mảng lục địa va chạm và đùn các tầng địa chất lên trên, nơi nó có thể dễ dàng bị phong hóa, phá hủy nhỏ ra bởi mưa và ánh nắng. Thời tiết sau đó từ từ lọc các chất dinh dưỡng từ các ngọn núi vào đại dương.

Có thể đáng ngạc nhiên hơn, Large và các đồng nghiệp của ông cũng phát hiện ra rằng các yếu tố này có mức độ phong phú thấp trong các giai đoạn gần đây hơn – và các giai đoạn này trùng khớp với sự tuyệt chủng hàng loạt. Những thời kỳ nghèo dinh dưỡng này đã xảy ra khi phốt pho và các nguyên tố vi lượng đang được Trái đất tiêu thụ nhanh hơn mức chúng có thể được bổ sung, Large nói.

Hoạt động kiến ​​tạo cũng đóng một vai trò thiết yếu trong việc duy trì sự ổn định lâu dài của sự điều tiết nhiệt độ trên Trái đất. Hãy xem xét trường hợp của carbon dioxide. Một hành tinh có quá nhiều carbon dioxide có thể kết thúc giống như Sao Kim, một  hành tinh cực nóng. Hoạt động mảng trên Trái đất đã giúp điều chỉnh mức độ carbon dioxide so với cáchành tinh còn lại.

Thời tiết tương tự kéo các chất dinh dưỡng từ đỉnh núi xuống đại dương cũng giúp loại bỏ carbon dioxide khỏi khí quyển. Bước đầu tiên của quá trình này xảy ra khi carbon dioxide trong khí quyển kết hợp với nước tạo thành axit carbonic – một hợp chất giúp hòa tan đá và đẩy nhanh quá trình phong hóa. Mưa mang cả axit carbonic và canxi từ đá hòa tan vào đại dương. Carbon dioxide cũng hòa tan trực tiếp vào đại dương, nơi nó kết hợp với axit carbonic và canxi hòa tan để tạo ra đá vôi, rơi xuống đáy đại dương. Cuối cùng, qua các eons không thể tưởng tượng được, carbon dioxide bị cô lập và bị cuốn xuống theo mảng đại dương- khi nó hút chìm vào các mảng lục địa.

Đó là thứ giúp điều hòa CO 2 trong khí quyển trong thời gian dài, ông Huntington Huntington nói.

Ảnh trên không của Denali, Alaska.

Phạm vi Alaska tiếp tục phát triển ngày hôm nay là kết quả của kiến ​​tạo mảng. Núi Denali, có thể nhìn thấy ở giữa bức ảnh này, tăng lên với tốc độ một nửa milimet mỗi năm.Trung tâm nghiên cứu Glenn

Kiến tạo mảng thậm chí có thể chịu trách nhiệm cho một thành phần khí quyển khác, và được cho là quan trọng nhất: oxy.

Toàn bộ 2 tỷ năm trước kỷ Cambri, trở lại thời kỳ Archean, Trái đất hầu như không có bất kỳ không khí nào chúng ta hít thở bây giờ. Tảo đã bắt đầu sử dụng quang hợp để tạo ra oxy, nhưng phần lớn lượng oxy đó đã bị tiêu thụ bởi các loại đá giàu sắt sử dụng oxy để tạo ra rỉ sét.

Theo nghiên cứu được công bố vào năm 2016 , kiến ​​tạo mảng sau đó đã bắt đầu một quá trình gồm hai bước dẫn đến mức oxy cao hơn. Trong bước đầu tiên, sự hút chìm làm cho lớp vỏ Trái đất thay đổi và tạo ra hai loại vỏ – đại dương và lục địa. Mảng lục địa có ít đá giàu sắt hơn và nhiều đá giàu thạch anh hơn, không hút oxy ra khỏi khí quyển.

Sau đó trong một tỷ năm tiếp theo – từ 2,5 tỷ năm trước đến 1,5 tỷ năm trước – đá đã phong hóa và bơm carbon dioxide vào không khí và đại dương. Lượng carbon dioxide thêm vào sẽ hỗ trợ tảo, sau đó có thể tạo ra nhiều oxy hơn – đủ để cuối cùng châm ngòi cho kỷ Cambrian.

Bạn cần sự cô lập và cạnh tranh để tiến hóa, để thực sự tiến lên. Nếu không có sự thay đổi thực sự trong khu vực biển-đất liền, thì không có sự cạnh tranh và phát triển, ông Stern nói. Một khi bạn có được sự sống, bạn thực sự có thể làm cho nó phát triển nhanh chóng bằng cách phá vỡ các lục địa và thềm lục địa và di chuyển chúng đến các vĩ độ khác nhau và kết hợp lại chúng.

Stern cũng đã lập luận rằng kiến ​​tạo mảng có thể cần thiết cho sự tiến hóa của các loài tiên tiến. Ông cho rằng vùng đất khô cằn trên các lục địa là cần thiết cho các loài để tiến hóa các chi và bàn tay cho phép chúng nắm bắt và thao túng các vật thể, và rằng một hành tinh với các đại dương, lục địa và kiến ​​tạo mảng sẽ tối đa hóa cơ hội cho sự hình thành và chọn lọc tự nhiên.

Stern tưởng tượng một tương lai xa trong đó các kính thiên văn quay quanh có thể xác định các ngoại hành tinh nào là đá, và những cái nào có kiến ​​tạo mảng. Những người phát ngôn cho các hệ sao xa xôi nên nhắm đến những hành tinh không có kiến ​​tạo mảng trước, tốt hơn để tránh làm hỏng sự tiến hóa của cuộc sống phức tạp ở một thế giới khác.

Nứt vỏ trái đất

Nhưng mọi thứ phụ thuộc vào thời điểm quá trình bắt đầu và đó là một câu hỏi mở lớn.

Trái đất hình thành khoảng 4,54 tỷ năm trước và khởi đầu là một quả cầu nóng chảy của đá nóng chảy. Craig O’Neill , một nhà khoa học hành tinh tại Đại học Macquarie, Úc , cho biết, nó có thể không có kiến ​​tạo mảng dưới bất kỳ hình thức nào có thể nhận ra trong ít nhất 1 tỷ năm sau khi hình thành .

Trước đó, như bây giờ, sự đối lưu bên trong các lớp bên trong của hành tinh sẽ di chuyển nhiệt và đá xung quanh. Đá trong lớp phủ được nén và nung nóng trong lõi của Trái đất và sau đó trồi lên bề mặt, nơi nó nguội đi và trở nên đặc hơn, sau đó lại chìm xuống và bắt đầu lại quá trình.

Thông qua sự đối lưu, chuyển động thẳng đứng đã xảy ra ngay cả trên Trái đất sơ khai. Nhưng lớp phủ tại thời điểm đó tương đối mỏng, chanh O’Neill nói, và không thể tạo ra lực cần thiết để phá vỡ lớp vỏ rắn.

Hút chìm đã không xảy ra. Không có chuyển động ngang, theo Kle Klepeis. Vì vậy, đã có một thời gian trước khi các lục địa, trước khi lục địa đầu tiên hình thành nên – thời gian trước khi hạ cánh, nếu bạn muốn. Trái đất không có kiến tạo mảng, mà lúc đó chỉ là 1 tấm lớn duy nhất.

O’Neill đã công bố nghiên cứu vào năm 2016 cho thấy Trái đất sơ khai có thể giống như mặt trăng núi lửa của sao Mộc, Io, nơi bạn có chế độ hoạt động núi lửa và không có nhiều chuyển động ngang, ông O’Neill nói. Khi hành tinh bắt đầu lạnh dần, các mảng có thể dễ dàng kết hợp với lớp phủ bên dưới, khiến hành tinh này chuyển sang kỷ nguyên kiến ​​tạo mảng.

Điều này đặt ra câu hỏi về cái gì đã phá vỡ tấm và tạo ra những mảng đó ngay từ đầu.

Một số nhà nghiên cứu nghĩ rằng một sự xâm nhập có thể đã khiến mọi thứ chuyển động. Trong hai năm qua, một số nhóm các nhà nghiên cứu đã đề xuất rằng các tiểu hành tinh còn sót lại từ sự ra đời của hệ mặt trời có thể đã phá vỡ tấm cứng đó của Trái đất. Mùa thu năm ngoái, O’Neill và các đồng nghiệp đã công bố nghiên cứu cho thấy rằng một vụ bắn phá các tiểu hành tinh , nửa tỷ năm sau khi Trái đất hình thành, có thể đã bắt đầu hút chìm bằng cách bất ngờ đẩy lớp vỏ lạnh bên ngoài vào lớp phủ phía trên nóng. Vào năm 2016, Maruyama và các đồng nghiệp đã lập luận rằng các tiểu hành tinh sẽ cung cấp nước cùng với năng lượng tác động của chúng , làm suy yếu đá và cho phép di chuyển mảng bắt đầu.

Nhưng có thể Trái đất không cần một động lực, sự kiện nào giúp đỡ. Quá trình làm mát riêng của nó có thể đã phá vỡ nắp thành từng mảnh, giống như một chiếc bánh nướng trong lò quá nóng.

Graphic illustrating different ways the Earth's crust could have cracked, which led to active plate tectonics.

Tạp chí Lucy Reading-Ikkanda / Quanta

Ba tỷ năm trước, Trái đất có thể có hoạt động kiến ​​tạo mảng tồn tại trong một thời gian ngắn , nhưng nó vẫn chưa phổ biến. Cuối cùng, các khu vực lạnh hơn của lớp vỏ sẽ bị kéo xuống dưới, làm suy yếu lớp vỏ xung quanh. Khi điều này xảy ra liên tục, các khu vực yếu sẽ dần dần xuống cấp thành các ranh giới mảng. Cuối cùng, họ đã có thể hình thành đầy đủ mảng kiến tạo được thúc đẩy bởi sự hút chìm, theo một bài báo 2014 tại Thiên nhiên bởi David Bercovici của Đại học Yale và Yanick Ricard của Đại học Lyon ở Pháp.

Hoặc điều ngược lại có thể xảy ra: Thay vì lớp vỏ lạnh đẩy xuống, lớp vỏ nóng bỏng – giống như loại đang phun trào ở Hawaii – có thể nổi lên trên bề mặt, thấm qua lớp vỏ và làm tan chảy nó, phá vỡ nắp. Stern và Scott Whattam của Đại học Hàn Quốc tại Seoul đã chỉ ra cách thức này có thể hoạt động trong một nghiên cứu năm 2015.

Theo những lý thuyết này, kiến ​​tạo mảng có thể đã bắt đầu và dừng lại nhiều lần trước khi lấy đà khoảng 3 tỷ năm trước. Nếu bạn phải nhấn nút của mọi người và bắt họ lấy số, thì có một sân bóng đang hoạt động trong cộng đồng khoảng 3 tỷ năm trước, kiến ​​tạo mảng bắt đầu xuất hiện, theo ông O’Neill.

Tuy nhiên, thật khó để biết chắc chắn vì bằng chứng rất rời rạc.

Lớp vỏ đại dương chỉ có 200 triệu năm tuổi. Chúng tôi chỉ thiếu những bằng chứng mà chúng tôi cần, còn có thể nói. Có rất nhiều địa hóa học đã đi một chặng đường dài từ những năm 1980, nhưng những câu hỏi cơ bản tương tự vẫn còn đó.

Những tảng đá lâu đời nhất trên Trái đất cho thấy một số loại hút chìm nguyên sinh đã xảy ra cách đây 4 tỷ năm, nhưng những tảng đá này rất khó diễn giải, O’Neill nói. Trong khi đó, vào khoảng 3 tỷ đến 2 tỷ năm trước, lớp phủ của Trái đất rõ ràng đã trải qua một số thay đổi hóa học có thể được quy cho việc làm mát, thay đổi mô hình đối lưu của nó. Một số nhà địa chất coi đây là một bản ghi chép về sự khởi phát và lan rộng của các mảng kiến ​​tạo trên khắp hành tinh.

Kiến tạo mảng trên các hành tinh khác

Vậy kiến ​​tạo mảng có cần thiết cho cuộc sống?

Cuối cùng, vấn đề là chúng ta có một mẫu. Chúng ta có một hành tinh trông giống Trái đất, một nơi có nước và lớp vỏ lục địa có thể chờm trượt, một nơi tràn đầy sự sống. Các hành tinh hoặc mặt trăng khác có thể có hoạt động giống như kiến ​​tạo, nhưng nó không giống với những gì chúng ta thấy trên Trái đất.

Lấy Enceladus, một mặt trăng lạnh của Sao Thổ đang trút vật chất vào không gian từ những vết nứt trông kỳ lạ trong lớp băng toàn cầu của nó. Hay sao Kim, một hành tinh dường như đã xuất hiện trở lại 500 triệu năm trước nhưng không có ranh giới mảng nào mà chúng ta có thể nhận ra. Hay sao Hỏa, nơi có ngọn núi lửa lớn nhất hệ mặt trời ở Olympus Mons, nhưng có lịch sử kiến ​​tạo là bí ẩn. Olympus Mons được tìm thấy ở một khu vực phình to tên là Tharsis, nó khổng lồ đến mức nó có thể đè nặng lớp vỏ sao Hỏa đủ để khiến các cực của nó đi lang thang .

O’Neill đã công bố nghiên cứu cho thấy một hành tinh có kích thước sao Hỏa với lượng nước dồi dào có thể bị đẩy vào trạng thái hoạt động kiến ​​tạo. Và những người khác đã lập luận rằng một số khu vực ở bán cầu nam của sao Hỏa giống như sự lan rộng dưới đáy biển. Nhưng các nhà nghiên cứu đồng ý rằng nó đã không có bất kỳ hành động nào trong ít nhất 4 tỷ năm, gần bằng tuổi của lớp vỏ của nó, theo dữ liệu từ các quỹ đạo và robot trên bề mặt.

Có một số tranh luận rằng có thể rất, rất sớm, nó có thể đã có kiến ​​tạo mảng, nhưng quan điểm của tôi là nó có lẽ chưa bao giờ được thực hiện, chuyên gia Foley nói.

Hình ảnh trên không của một hẻm núi trên sao Hỏa.

Valles Marineris trên sao Hỏa là một hẻm núi kéo dài 3.000 km và đạt độ sâu 8 km.

Tàu đổ bộ InSight Mars , ra mắt vào tháng 5 và dự kiến ​​đến vào ngày 26 tháng 11, sẽ giúp giải quyết cuộc tranh luận. Ba công cụ của InSight nhằm mục đích đo độ dày và trang điểm của lớp vỏ, lớp phủ và lõi của sao Hỏa, cung cấp manh mối mới về cách sao Hỏa mất từ ​​trường và liệu nó có từng có kiến ​​tạo mảng hay không.

Nếu chúng ta có thể hiểu các hành tinh khác, như Sao Kim và Sao Hỏa, và các mặt trăng của Sao Mộc, nó sẽ giúp chúng ta biết những gì cần tìm kiếm ở đây trên Trái Đất. Đó là một lý do để tiếp tục khám phá các hành tinh khác – nó giúp chúng ta trở về nhà

Trong khi nguồn gốc của kiến ​​tạo mảng vẫn là một chủ đề để tranh luận, các nhà địa chất có thể đồng ý rằng đến một lúc nào đó, các lục địa sẽ ngừng trôi, kiến tạo mảng sẽ bị dừng khi Trái Đất già đi.

Trái đất cuối cùng sẽ hạ nhiệt đủ để kiến ​​tạo mảng suy yếu dần, và để hành tinh lắng xuống trạng thái nắp tù đọng một lần nữa. Các siêu lục địa mới sẽ tăng và giảm trước khi điều này xảy ra, nhưng đến một lúc nào đó, động đất sẽ chấm dứt. Núi lửa sẽ tắt. Trái đất sẽ chết, giống như sao Hỏa. Liệu các dạng sống bao trùm mọi kẽ hở của nó vẫn còn ở đây hay không là một câu hỏi cho tương lai.

Bài viết này đã được in lại trên  TheAtlantic.com .

Địa khí ngôi nhà và sức khỏe con người (bài báo số 1)

Địa khí ngôi nhà và sức khỏe con người

(ĐTCK) Thạc sỹ địa chất Nguyễn Duy Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm Địa y học (thuộc Tổng hội Địa chất Việt Nam) cho rằng, với địa y học, hoàn toàn có thể đo đạc, tính toán “phong thủy”, hay nói cụ thể hơn là địa khí và từ đó có giải pháp tốt nhất cho ngôi nhà của bạn.

Địa khí ngôi nhà và sức khỏe con người

Thưa anh, vào các cửa hàng vật phẩm phong thủy, ta dễ dàng bắt gặp hình tượng con khỉ. Đón năm mới Bính Thân, không ít người nghĩ đến việc đặt linh vật khỉ trong nhà. Nhưng theo thuyết phong thủy, người ta bày tượng khỉ để cầu tài lộc, công danh hay nhân duyên?

Như các linh vật phong thủy khác, cũng có nhiều lý giải vì sao lại dùng tượng khỉ hoặc là dùng đồ trang sức hình con khỉ. Trong tiếng Hán, khỉ () phát âm là hầu (hóu), đồng âm với từ hầu () trong hầu tước (hóu jué). Vì sự đồng âm này nên người ta coi khỉ là biểu tượng của quyền lực. Sự đồng âm đó cũng đem lại nhiều hình thức biểu hiện của tượng khỉ như Bối bối phong hầu (đời đời phong hầu); Quải ấn phong hầu (Đeo ấn phong hầu); Mã thượng phong hầu (Cưỡi ngựa phong hầu)…

Người ta có thể tạc tượng khỉ đặt trên bàn làm việc, đặt trong nhà, thậm chí làm ngọc bội đeo trên người. Nhưng tôi cho rằng đây chỉ là niềm tin tâm lý, một sự cầu may mắn. Ngay từ sự đồng âm hầu – khỉ với hầu – hầu tước cũng đã thể hiện điều này.

Nói vậy, tức là tượng khỉ, ngọc bội hình khỉ chỉ có tác dụng trang trí cho đẹp sao?

Không, không phải vậy. Mấu chốt không nằm ở hình con khỉ hay con gì khác mà ở chất liệu tạc tượng. Quan trọng là tượng tạc bằng gì, gỗ, đá hay bột đá.

Nếu là tượng tạc bằng đá thì nó vẫn có tác dụng, nếu là bột đá thì giảm tác dụng đi nhiều và nếu là thủy tinh nhân tạo hay nhựa thì không có giá trị. Nguyên nhân là vì năng lượng trong các loại đá có tác dụng tốt với con người. Các loại đá thường dùng trong phong thủy có tác dụng rất lớn đối với sức khỏe con người gồm: Nâng cao năng lượng sinh học Bovis; Kéo nguồn sinh khí theo hướng vào trung tâm của viên đá; Chặn địa khí xấu dưới lòng đất do các hoạt động của mạch nước ngầm, đứt gãy kiến tạo hay do các mạng lưới từ trường của quả đất.

Nhìn chung, các loại đá đều có tác dụng phong thủy, nhưng đá thạch anh được sử dụng phổ biến nhất do trường điện từ tự nhiên của chúng phù hợp với cơ thể con người, ngoài ra giá thành của thạch anh rất hợp lý.

Nói đến phong thủy thì nhìn chung đây là học thuyết chuyên nghiên cứu và tìm kiếm, chọn lựa nơi trú ngụ tốt nhất cho con người. Đối với phong thủy phương Đông (chủ yếu là Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản…), có một số trường phái như Loan đầu; Bát cảnh minh trạch,  Huyền không phi tinh… Nhìn chung, các trường phái phong thủy phương Đông đều dựa vào dịch lý, học thuyết âm dương – ngũ hành.

Nhưng trên thế giới, môn Địa y học – hay gọi nôm na là phong thủy phương Tây phổ biến ở nhiều nước và tôi theo đuổi ngành này 6 – 7 năm nay. Geopathology – Địa y học là một nhánh trong địa chất, chuyên nghiên cứu các yếu tố địa chất của trái đất ảnh hưởng ra sao đến sức khỏe, tinh thần và cảm xúc của con người.

Do trái đất có một trường điện từ tự nhiên được gọi là cộng hưởng schumann có tần số khoảng 7,83 Hz. Ở trạng thái bình thường, các dòng năng lượng địa từ là điều cần thiết cho cuộc sống và có một mối tương quan mạnh mẽ giữa cộng hưởng Schumann và nhịp não alpha 7-12 Hz. Nghiên cứu cho thấy rằng, khi bộ não được tác động bởi các máy phát tần số sóng não alpha thì cơ thể con người cũng khỏe mạnh hơn, tinh thần sảng khoái hơn. Đây là lý do tại sao NASA đã cài đặt các máy phát tần số Schumann trong tàu con thoi để thay cho năng lượng tự nhiên của trái đất.

Các tia này bị bóp méo khi nó đi qua suối ngầm, các đới quặng khoáng lớn và các vật cản khác và thường thì chúng tạo ra sự thay đổi tần số đến một mức độ gây hại cho hầu hết con người. Sự thay đổi tần số theo ngưỡng cao hơn của các trường địa khí này khiến bộ não của con người không thích nghi nổi hoặc nếu muốn cân bằng cần bỏ ra một năng lượng lớn do đó khiến con người mệt mỏi, khó chịu… Mặt khác, nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho một số sinh vật như vi khuẩn, virus và nấm mốc khác phát triển mạnh.

ông Nguyễn Duy Tuấn
Và như vậy ứng dụng của địa y học là xem xét các trường điện từ xấu trong nhà, công sở và tìm cách hóa giải, trung hòa các trường này, giúp con người khỏe mạnh hơn.

Xem ra cách giải thích này khiến cho phong thủy nghe rất khoa học, thậm chí có tính chính xác, có thể cân đo đong đếm? Cách hóa giải mà địa y học đưa ra là gì?

Các dòng tia đất này có thể được phát hiện bằng nhiều cách bao gồm cả việc sử dụng các máy đo bức xạ cực nhạy, các thiết bị khác phân tích dị thường sóng radio để xác định vị trí và cảm xạ. Ngoài ra, có thể xem tập tính sinh hoạt của chó và trẻ em (rất nhạy bén với địa khí xấu) thường tránh xa những khu vực có tia đất, trong khi mèo, kiến, mối lại có xu hướng thích tập trung tại các khu vực trên.

Cách khắc phục phổ biến là sử dụng các loại đá bán quý, các loại tinh thể thạch anh (crystal) khác nhau để trung hòa những tia xấu có rung động với tần số cao và chuyển chúng thành các tia có tần số thấp hơn phù hợp hơn với cơ thể con người (nằm trong ngưỡng tự nhiên 7-10Hz). Việc này được sử dụng ở Tây Tạng cách đây hàng nghìn năm, nơi núi tuyết khó tìm được thảo dược nên người ta sử dụng đá để tăng cường sức khỏe. Các nước ở Nam Á cũng sử dụng đá nhiều.

Ta có thể xác định vị trí đới nước ngầm – nơi mà điện từ trường đất bị biến đổi – và có thể rải đá phủ kín vị trí này, hóa giải tác động xấu tới sức khỏe. Rất nhiều loại đá có khả năng này, nhưng không phải loại đá nào cũng đủ rẻ để sử dụng. Chẳng hạn như trường hợp nêu trên, tùy hình thế của đới nước ngầm có thể chỉ là mạch chảy nhỏ hoặc có thể toàn bộ diện tích nhà. Nếu dùng đá rải toàn bộ nền nhà để chặn tia đất thì tốn hàng trăm kg và đương nhiên chỉ có giá cả của thạch anh đáp ứng được yêu cầu.

Cũng vì lý do này, thạch anh được sử dụng rất nhiều trong phong thủy. Các loại đá khác như ruby, sapphire, opal, emerald, tourmaline… đều có tác dụng tương tự thạch anh nhưng giá cả thì quá đắt để có thể sử dụng theo cách này.

Khi dùng làm trang sức, đá phải trong, phát sáng mới được coi là quý, đẹp. Vậy đá dùng trong Địa y học, trong phong thủy có coi trọng yếu tố này không?

Chỗ này có chút khác, các loại đá trong suốt, tức là có thể nhìn xuyên thấu có tác dụng khuyếch đại năng lượng. Nếu trường địa khí ở nhà bạn tốt, các loại đá này sẽ khuyếch đại năng lượng tốt, nhưng nếu xấu thì cũng sẽ làm tăng tác hại lên nhiều. Các loại đá không thấu quang có tác dụng ngăn chặn, hóa giải nên thường được sử dụng nhiều hơn.

Vì thế, có một dạng đá đặc biệt có giá trị cao trong phong thủy. Đó là thạch anh bao tinh thể mà ta thường gặp nhất là thạch anh tóc hoặc thạch anh rêu. Trong viên thạch anh thấu quang, trong suốt có bao thể tạo bởi các khoáng thể khác, đó có thể là các bao thể hình kim, que, rêu được hình thành từ khoáng thể
tourmalin, actinolit, clorit… nhiều màu, ngoằn nghèo bên trong thạch anh. Viên đá như vậy vừa có tác dụng ngăn chặn tia xấu vừa có tác dụng khuyếch đại nên rất tốt trong phong thủy.

Như vậy, tôi có thể hiểu lý do vì sao tượng khỉ đá có tác dụng tốt với con người, chỉ có điều tác dụng đến từ chất liệu tạc tượng chứ không phải bản thân hình thù tượng. Nếu như vậy, phải chăng khi sử dụng đá phong thủy không nhất thiết phải có hình nhất định mà hình dạng gì cũng được?

Phương Tây thường chuộng các hình dạng gần với tự nhiên như tròn, ô van, vuông, chữ nhật… Điều này cũng có nguyên lý, các hình dạng này sẽ giúp năng lượng trong đá phát huy tác dụng một cách tốt nhất. Nhưng nếu bạn dùng hình dạng đặc biệt về động vật, hoa quả cũng được. Tốt nhất là các tinh đám, sau đó là hình dạng tự nhiên của đá, hình dạng gần với tự nhiên, hình dạng cầu… Quan trọng vẫn là chất đá.

https://bds.tinnhanhchungkhoan.vn/phong-thuy/dia-khi-ngoi-nha-va-suc-khoe-con-nguoi-129796.html

Cơ sở khoa học của phương pháp nối đất- 1 dạng lợi ích của thổ khí. (Bài báo số 4)

Cơ sở khoa học của phương pháp nối đất- 1 dạng lợi ích của thổ khí.
Các kĩ thuật khăc chế tính hàn và tính ẩm của đất mà vẫn giữ được năng lượng tự nhiên của đất tôi sẽ đề cập trong 1 bài gần đây.
(ĐTCK) Hiện nay, con người thường không quan tâm đến sự liên kết tự nhiên giữa họ và mặt đất như thế nào, nên các bệnh vốn ngày xưa vô cùng ít, thì nay lại xuất hiện phổ biến hơn, đặc biệt là các bệnh mãn tính như viêm khớp, mệt mỏi, đau đầu.
Trong ngành địa y học, các chuyên gia quan tâm đến sự tương tác giữa con người và mặt đất, nhằm tìm ra các đặc điểm về điện từ trường, các hợp chất trong đất nó có hại hay có lợi cho con người như thế nào. Một trong số các cơ chế các chuyên gia trong ngành rất quan tâm đó là “tiếp đất”.
Tiếp đất là một trạng thái tự nhiên khi con người tiếp xúc với mặt đất qua da hoặc qua một vật liệu có độ dẫn điện tốt. Cơ chế này rất phổ biến trong các kỹ thuật điện, tuy nhiên để nó trở thành một cơ chế áp dụng thành một liệu pháp tăng cường sức khỏe và chữa một số bệnh, thì ở nước ta nói chung chưa phổ biến.
Do ngày này, các thiết bị điện ngày càng nhiều, mật độ các thiết bị và tần suất sử dụng chúng trong sinh hoạt của người dân ngày càng tăng nhanh, kết hợp với sự phát triển phổ biến các vật liệu cách điện tốt như cao su, nhựa, các sản phẩm làm từ dầu mỏ… sử dụng trong sinh hoạt, khiến con người càng tiếp đất ít đi.
Có thể nêu một ví dụ khá phổ biến về quá trình sinh hoạt của một người như sau: Mọi người ngày nay ngủ trên giường gỗ, khi bước xuống thì đi trên thảm trong phòng hoặc đi giày, dép chế tạo từ cao su, sau đó di chuyển trên các phương tiện giao thông là xe máy, xe ô tô cũng tiếp đất là 2 bánh và 4 bánh cao su; khi làm việc thì ngồi trên ghế nhựa; khi ra ngoài đường cũng tiếp tục đi giày có đế bằng cao su…
Như vậy, hiện nay chúng ta hầu hết không tiếp xúc trực tiếp được với đất thường xuyên như trước và nó khiến các bệnh hiện đại như đau xương khớp mãn tính, huyết áp không ổn định… xuất hiện nhiều hơn so với ngày xưa.
Vậy khi tiếp đất thì có ý nghĩa gì? Khi tiếp đất, cơ thể của con người được cung cấp các dòng electron tự do tích điện âm từ lòng đất, giúp cân bằng, trung hòa lại các hạt điện tích dương có nguồn gốc từ các thiết bị điện tử, các kim loại nặng qua đường do ăn uống và qua đường thở do xăng dầu tạo ra. Các cảm giác ban đầu có thể nhận thấy được sau khoảng 20-30 phút tiếp đất là ấm áp, dễ chịu, nhẹ nhõm… Ngoài ra, trong y tế, nó làm giảm viêm nhức, giảm đau, tăng khả năng ngủ ngon trong đa số trường hợp, giảm strees, làm lưu thông máu, giảm đau đầu, tăng tốc độ hồi phục sức khỏe và bảo vệ cơ thể khỏi các sóng điện trường tần số siêu thấp (EMF).
Các thí nghiệm khoa học của bác sỹ Maurice Ghaly (Mỹ) đã phân tích hàm lượng hormone cortisol – được biết đến là hormone stress. Khi con người lo lắng, sợ hãi, hoảng loạn, quá căng thẳng, thì nồng độ hormone cortisol tăng lên và có thể gây ra chứng mất ngủ, hệ miễn dịch suy yếu, lượng đường trong máu không ổn định…
Qua việc sử dụng các liệu pháp tiếp đất khi ngủ trong khoảng thời gian 8 tuần, những người bị stress đã có hàm lượng cortisol gần tương đương với người bình thường. Ngoài ra, còn rất nhiều thí nghiệm khác như đo nhiệt độ của các chỗ bị viêm khớp trước và sau nối đất trong thời gian nhất định, đều cho thấy các cải thiện về nhiệt độ ở chỗ bị viêm khớp.
Ngoài ứng dụng trong y học, các chuyên gia của Trung tâm Ứng dụng Địa y học quan tâm đến khả năng ứng dụng các đặc tính vật lý trên của đất để áp dụng vào phong thủy hiện đại, như tạo ra các màn chắn bức xạ EMF do các thiết bị điện tạo nên để đảm bảo yếu tố điện từ trường không gây ra những tác hại lâu dài. Chẳng hạn, việc bố trí cây cối thế nào để có màn chắn bức xạ điện từ trường tốt là một nhiệm vụ rất quan trọng và chúng rất có ý nghĩa với những ngôi nhà có mạng lưới đường dây điện chằng chịt quanh nhà.
Ngoài việc sử dụng các liệu pháp chữa trị bệnh vài cải thiện phong thủy dựa trên phương pháp tiếp đất, bản thân mỗi người cần hiểu hơn về sự cần thiết của việc tiếp xúc trực tiếp bàn chân với đất, bởi qua hàng triệu năm tiến hóa, cấu tạo bàn chân của con người đặc biệt là huyệt Dũng Tuyền nằm dưới lòng bàn chân được tiến hóa để có thể nhận nguồn electron tự do từ lòng đất, giúp con người khỏe mạnh hơn. Mỗi ngày, chỉ cần đi bộ chân trần khoảng 20-40 phút cũng là cách giúp nâng cao sức khỏe hữu hiệu, đơn giản và không tốn kém.
Theo Thạc sỹ Địa chất Nguyễn Duy Tuấn
Báo Đầu tư Bất động sản

https://bds.tinnhanhchungkhoan.vn/phong-thuy/muon-khoe-hay-tiep-dat-133818.html

Bài báo số 13- Khí (theo nghĩa không khí) trong phong thủy

(ĐTCK) Khi nói đến khí, chúng ta thường liên tưởng đến những ngôi nhà thông thoáng, mát mẻ. Tuy nhiên, để đạt được đúng theo tiêu chí một ngôi nhà và các căn phòng trong ngôi nhà đó thông thoáng thì lại không phải là dễ.

Việc phân tích yếu tố “khí” đều dựa trên các định luật vật lý cơ bản, ví dụ như định luật Bernuolli.

Một ngôi nhà hay một căn phòng trước tiên cần phải có hệ thống đường vào (cửa chính) và đường ra của khí (các hệ thống cửa sổ), trong đó để không khí trong phòng chuyển động đối lưu một cách liên tục thì các hệ thống đường ra của khí phải liên tục được mở.

Việc này thường khó được đáp ứng với các ngôi nhà hình ống, diện tích nhỏ trong đô thị thường có ít cửa sổ và cũng thường có thói quen đóng cửa sổ cả ngày. Ngoài ra, việc thiết kế phòng sử dụng điều hòa quá nhiều như hiện nay cũng là một nguyên nhân khiến cho lượng oxy được cung cấp vào thường không đạt đủ tiêu chuẩn. Một người trưởng thành trung bình hít 11.000 lít không khí (550 lít khí oxy tinh khiết mỗi ngày).

Theo định luật Bernoulli, chúng ta có thể phân chia một căn phòng thành 2 đới: đới thoáng khí và đới bí khí, trong đó đới thoáng khí là đới nối liền giữa cửa chính với cửa sổ của căn phòng, đới này là nơi mà các dòng khí đối lưu, trao đổi vào ra nhiều nhất dựa trên sự chênh lệch áp suất ở trong và ngoài phòng. Các hoạt động liên quan đến công việc hàng ngày sử dụng nhiều năng lượng, sử dụng nhiều oxy, như hoạt động trí não, học hành thì cần bố trí đặt tại những đới trên sẽ tốt hơn đới bí khí trong căn phòng.

Ngoài ra, việc sắp đặt bố trí nội ngoại thất trong nhà cũng ảnh hưởng đến quỹ đạo đường đi của khí trong ngôi nhà. Không khí trong trạng thái chuyển động là một thành phần hỗn hợp các loại khí oxy, nitơ, hydro, cacbonic, các hợp chất khí có lưu huỳnh và kim loại nặng khác… Chúng lơ lửng trong không khí và do có khối lượng riêng khác nhau, khi gặp vật cản, vận tốc của khối không khí giảm sẽ xảy ra hiện tượng phân dị trọng lực các loại khí nặng hơn có xu hướng đi xuống dưới, trong khi đó các loại nhẹ hơn sẽ có xu hướng lướt lên trên.

Người xưa đã rất hiểu rõ được quy luật trên để đề ra các phương pháp bố trí đồ đạc, bình phong, cây cối và trở thành một phần của bộ môn phong thủy áp dụng đến ngày nay. Trường hợp dễ thấy nhất là cách thiết kế các cửa ra vào không được thông nhau, tạo thành đường thẳng hun hút, mà phải so le, chếch nhau, làm sao để không khí trong căn nhà chuyển động theo hình chữ “S”.

Nói đến khí, chúng ta còn cần phải quan tâm đến khí phóng xạ radon (đơn vị pCi/L). Radon là căn nguyên chính dẫn đến ung thư phổi ở người không hút thuốc lá. Radon là một loại khí phóng xạ tự nhiên, không màu, không mùi và không vị, do sự phân rã tự nhiên của chất uranium trong đất sinh ra.

Khí radon bay vào các tòa nhà bằng cách xông lên từ mặt đất, thông qua các vết nứt trong nền móng, kẻ hở quanh các ống dẫn và luồng vào khu vực sinh sống. Ở đồng bằng nước ta, khí radon đa phần đều nằm trong ngưỡng cho phép (<4pCi/L). Tuy nhiên, có những căn nhà có nồng độ khí cao bất thường thường liên quan đến chính thói quen của người dân cư ngụ là không bao giờ mở cửa sổ thoát khí. Hoặc là thiết kế phòng ốc kém thông thoáng, khiến khí radon vào và khó bay đi; hệ thống điều hòa không có chức năng lấy khí từ ngoài vào và hút khí từ trong phòng đi, khiến khí radon lẩn quẩn và tích đọng ngày càng nhiều trong phòng.

Không thể bỏ qua những tinh hoa của người xưa trong việc thiết kế ra nhà sàn ở vùng núi. Xét trên quan điểm địa chất, những khu vực vùng núi là nơi chịu các tác động lớn của các hoạt động kiến tạo, có mật độ đứt gãy và vết nứt lớn, là đường dẫn cho khí phóng xạ radon từ dưới lòng đất đi lên và thoát ra khỏi bề mặt đất nhiều hơn so với khu vực đồng bằng.

Do đó, ngoài chức năng đã được biết đến của nhà sàn là ngăn chặn thú dữ, bảo vệ gia súc, thì cách thiết kế trên tạo ra một khe hút gió mạnh dưới nền nhà sàn và làm khí radon nếu có đi lên từ bề mặt đất cũng sẽ bị phát tán đi nhanh hơn nhiều.

Một yếu tố nữa cần xét đến đó là mật độ ion âm/dương trong không khí. Trong phòng có mật độ ion âm ít hơn 50/cm3 như phòng hút thuốc, phòng làm việc có nhiều máy tính chúng ta có cảm giác ngột ngạt và đây cũng là môi trường dễ phát sinh vi khuẩn. Khi ở trong khu vực có mật độ ion âm ít hơn 1.000/cm3, cơ thể có cảm giác cần được thông gió. Khu vực với mật độ ion âm 2.000 ~ 20.000/cm3 như ở trong vườn cây, thác nước… cho ta một cảm giác không khí trong lành, tươi sạch.
Theo Ths. Nguyễn Duy Tuấn (www.diayhoc.com)

https://bds.tinnhanhchungkhoan.vn/phong-thuy/hieu-ve-khi-de-bo-tri-cua-so-va-do-dac-hop-ly-142551.html

Quy trình chuẩn xem phong thủy địa mạch

Quy trình chuẩn xem phong thủy địa mạch
Ở các nước châu âu đặc biệt là Đức và Áo, những người hành nghề phong thủy (tôi tạm gọi như vậy theo ngôn ngữ phương đông cho dễ hiểu, phương tây gọi là Geopathology) cũng kiểm tra nhà, các công trình xem tốt hay xấu theo góc nhìn riêng của họ, ngoài ra mỗi cá nhân hoặc trường phái luôn luôn tận dụng tối đa tiến bộ khoa học kĩ thuật vào quy trình xem phong thủy nhằm đem lại càng nhiều lợi ích cho xã hội càng tốt; qua thời gian dài tự nghiên cứu cũng như học hỏi, trao đổi với các cá nhân tôi tổng hợp ra quy trình chuẩn cho riêng mình, cũng gần như tương đương với những chuyên gia bên châu âu hiện đang làm. Quy trình xem gồm 6 mục:
1. Từ trường tự nhiên và các vật liệu nhiễm từ trong nhà,
2. khí Radon phát tán trong nhà
3. cường độ điện trường do các thiết bị điện tử phát ra trong nhà
4. Phóng xạ tự nhiên của đất và vật liệu
5. Quy luật phân bố khí (không khí) trong nhà
6. Địa khí của căn nhà.
7. kết hợp với các phương pháp thuộc phong thủy ấn độ, phong thủy trung quốc tùy từng trường hợp
Phần 1. Từ trường tự nhiên và các vật liệu nhiễm từ trong nhà:
– Những năm tháng làm đề án 47 của chính phủ gồm đo đạc, phân tích và xử lý số liệu từ trường vịnh Bắc bộ cho tôi khá nhiều kinh nghiệm và nền tảng kiến thức chuẩn về đặc điểm từ trường Trái Đất do đó có thể trao đổi khá nhiều với các chuyên gia phương tây và thống nhất tiêu chuẩn về cơ sở khoa học và phương pháp đo từ trường trong nhà sử dụng đơn vị mGauss hoặc microTesla; với giá trị tốt nhất cho con người là nên trong khoảng 35 đến 50 microTesla (giá trị chung của từ trường Trái Đất); các giá trị nhỏ hơn hay lớn hơn do sự nhiễm từ của vật liệu chứa sắt như bê tông cốt thép; các điểm từ trường cao đột biến do lắp đặt dây điện trong nhà sai có thể làm giá trị từ trường cao vọt lên 120 microTesla được coi là không tốt về lâu dài cho người sống trong nhà.
– Các hướng nghiên cứu hiện tại: những ai nghiên cứu về điện từ trường đều hiểu, chặn tác hại do điện thì dễ mà chặn do từ thì khó hơn nhiều, có rất ít các dạng vật liệu có khả năng chặn từ trường trong tự nhiên do đó tôi chủ yếu tập trung vào việc sắp xếp đồ đạc trong nhà sao cho tối ưu hóa công năng sử dụng nhưng vẫn tránh được tác động có hại của từ trường.
Phần 2. Khí radon phát tán trong nhà
– Khí radon có thể coi là 1 hướng nghiên cứu rất hay hiện nay, khoảng 7 năm trước tôi vẫn chỉ biết đến các thiết bị chuẩn của Đức với sai số 1% nhưng với giá hàng trăm triệu, tuy nhiên các máy đo của Hàn Quốc với sai số 10% nhưng giá thành rẻ hơn nhiều so với Đức đã cho tôi cơ hội áp dụng được vào trong cuộc sống.
– Khí Radon phát huy triệt để tác dụng của nó đối với các căn hộ bí khí, ít cửa sổ thoát khí, nằm trên khu vực có nhiều đồi núi đặc biệt các khu vực có nhiều đứt gãy và hang động, ở tầng hầm của các căn chung cư.
– Đơn vị đo chuẩn tắc của khí Radon là: Pci/l và giá trị của 1 căn nhà nên có số đo khí Radon <2 pci/l. Ở phương tây, nhiều khi giá trị khí Radon quá cao có thể khiến 1 ngôi nhà không được phép bán.
– Các hướng nghiên cứu chuyên sâu hiện nay tôi đang triển khai về khí Radon: Tôi đang tiếp tục nghiên cứu về các đặc tính thuận lợi để phát tán của khí Radon do nước ngầm, khe nứt có chứa các khí Co2 và CH4; nghiên cứu nồng độ khí radon trong hang động núi đá vôi của các tỉnh miền Bắc, và nghiên cứu hàm lượng radon khác nhau giữa các ngôi nhà kiến trúc do người kinh và nhà sàn dân tộc ở các tỉnh miền núi; nghiên cứu sự khác biệt về chỉ số Radon giữa nhà riêng với nhà chung cư ở Hà Nội (sự khác biệt rất lớn mà tôi cần thu thập thêm các thông số để nắm rõ nguyên nhân).
Phần 3. Cường độ điện trường do các thiết bị điện tử phát ra trong nhà
Về chỉ số cường độ điện trường có vẻ là 1 trong những lĩnh vực tôi đạt được nhiều thành tựu nhất và thiết thực nhất khi áp dụng vào thực tế khi các thí nghiệm về điện trường đều đạt được những mục đích tôi kì vọng, đơn vị đo là: Volt/m và có thể sử dụng 1 số thí nghiệm đo tổng cường độ điện trường tương tác vào 1 người trong ngôi nhà từ tất cả các phương hướng. Thông thường các tiêu chuẩn cho phép ở các nước châu âu là nên <10 V/m tại vị trí người ngủ trên giường, tuy nhiên có nhiều trường hợp mất ngủ, đau đầu do đặt dây điện ngầm trên đầu giường toi đo được max là 1200 V/m, trung bình là 200V/m; những trường hợp tôi đo được 1200 V/m là rất nhiều.
– Các hướng nghiên cứu hiện nay: Giá trị cường độ điện trường hiện nay là áp dụng cho tất cả các dải tần số, chủ yếu là dải 50Hz, có 1 số quan điểm cho rằng cần nghiên cứu thêm về điện trường tần số cao do các nguồn điện như cột điện, trạm biến áp cộng hưởng qua hệ thống dây dẫn điện trong nhà và sử dụng các thiết bị lọc tần nhằm smooth mềm hóa dòng điện (thực hiện bằng cách cắt đi tần số 50Hz và nhỏ hơn, chỉ giữ lại giá trị đo từ 100Hz trở lên); tôi có đọc và khá ủng hộ lối tiếp cận này, tuy nhiên để làm mềm dòng điện nó lại gây hiệu ứng phụ là làm từ trường của dây dẫn chỗ đặt bộ lọc cao lên gấp nhiều lần và làm từ trường lan mạnh ra 3m tính từ bộ lọc, điều này có thể gây hại với những căn phòng nhỏ như ở Việt Nam với diện tích phòng không đủ lớn.
– Cách xử lý điện trường: Điện trường là loại xử lý dễ nhất trong tất cả các yếu tố khi nắm rõ các quy luật, nên tôi không đề cập sâu trong bài này.
Phần 4. Phóng xạ tự nhiên của đất và vật liệu
Trong quá trình làm các dự án về biển và hải đảo, tôi có tham gia đo đạc phóng xạ tầng mặt tự nhiên của đất trong đó không chỉ đo mỗi thông số Uranium mà còn đo thông số khác như Thori và kali; tổng 3 số này mới tạo ra phóng xạ chuẩn của đất; tuy nhiên, có vẻ như phương pháp này không phát huy quá nhiều tác dụng trong môi trường đô thị khi các chỉ số đều ổn cả trong rất nhiều trường hợp tôi tiến hành đo đạc; nó chỉ phát huy được tác dụng thực tế khi đến gần các khu mỏ phóng xạ cao như ở phong thổ, lai châu.
– Cách xử lý: trong trường hợp đặc biệt có phóng xạ, có khá nhiều cách để xử lý bao gồm chì, thạch anh có chứa BaSo4 hoặc các loại khoáng vật sét hấp phụ phóng xạ.
– Các hướng nghiên cứu: Tôi khá là ngại va chạm về lĩnh vực phóng xạ mặt đất do nó có độ nguy hiểm cao về phơi nhiễm phóng xạ, và do nó cũng không có hiệu quả cao trong thực tiễn làm phong thủy hiện đại.
Phần 5. Quy luật phân bố khí (không khí) trong nhà
Đặc điểm khí động lực trong nhà phụ thuộc vào áp suất, vận tốc và nhiệt độ xoay theo các định luật cơ bản về khí động lực học; tôi áp dụng các định luật này trong bố trí cửa vào cửa ra, đồ đạc nội thất trong nhà để tạo ra luồng khí tươi giàu oxy đi vào căn nhà, cũng như là 1 cách tự nhiên nhất đẩy các loại khí như khí phóng xạ Radon, các khí nặng hơn có thành phần Sulfua, các luồng khí nóng trong nhà để làm thoáng và mát nhà 1 cách tự nhiên.
Phần 6. Địa khí của căn nhà.
Đầu tiên phải nói thẳng là không như 5 phần kia có máy móc và các quy luật khoa học đã được chứng minh, phần địa khí chưa có dụng cụ nào để đo đạc triệt để, chỉ có thể dựa vào những yếu tố định tính để xem xét vấn đề. Nó gần giống với khái niệm về năng lượng, khí trong văn hóa trung hoa, hoặc prana trong văn hóa ấn độ, hoặc Orgone, Ether energy tại các nước phương tây. Vì tính rộng rãi trong tất cả các nền văn hóa, cũng như lịch sử hàng nghìn năm tồn tại của nó mà phần này là phần tôi quan tâm nhất cũng như tập trung đi sâu nhất.
– Các tài liệu khoa học tiệm cận có thể tham khảo:
Trước khi xem phong thủy cho bất cứ căn nhà ở khu vực nào, tôi thường sử dụng các tài liệu đã được khoa học công bố để tham khảo bao gồm bản đồ địa chất, ảnh vệ tinh khu vực nhằm xác định đặc trưng kiến tạo đứt gãy, loại và tuổi của đất đá, quy luật vận chuyển trầm tích, quy luật hoạt động thủy văn. Đọc được các dạng tài liệu này giúp xác định được lịch sử hình thành khu vực đó như 1 cuốn phim sống động; giúp định hình được hướng đi tương đối của các dòng địa mạch lớn.
Khi đến thực tế, có thể nhìn địa hình khu vực trong đó để ý đến độ cao thấp, ở những nơi là núi cao thì hình dạng núi là góc cạnh hay đều đều, bởi nó liên quan đến điều kiện ngoại sinh phong hóa là yếu tố xác định được loại đất đá đó từ xa. Gần hơn có thể nhìn màu đất, sờ chất đất để xác định sơ qua loại đất đá khu vực này phong hóa từ đá gốc loại gì. Với khu vực này thì hệ thống thủy văn sông, hồ, ao cái nào chiếm ưu thế.
– Phân tích về địa mạch:
Mỗi vùng có 1 đặc trưng về địa mạch riêng phụ thuộc vào địa chất khu vực đó, những trường hợp đặc biệt bao gồm: những vùng nhỏ có năng lượng địa mạch cực cao (khá hiếm- tên gọi khác: long mạch, tây gọi là leyline) do chưa bị con người phá hủy, vẫn giữ được nét tự nhiên vốn có của nó thích hợp cho đặt các tòa nhà phục vụ lợi ích toàn dân như trường học, tòa nhà chính phủ vv; những vùng có năng lượng cực xấu (khá hiếm- tên gọi khác: tử mạch, tây gọi là sink line) do tự nhiên sản sinh ra nhằm cân bằng với các địa mạch năng lượng cao kia tôi gọi là tính chu kỳ của năng lượng địa mạch- với loại này tôi không chạm vào ở bất kỳ hình thức nào, nhà nào dính phải trường hợp này tôi cũng từ chối không giải quyết và đi về; những địa mạch có năng lượng hỗn tạp (rất nhiều) do trước đây vốn là rất tốt xong các hoạt động của con người như đào bới, đóng cọc làm cho nó trở nên mất cân bằng- loại này do bản chất của tự nhiên là tốt nhưng sau đó bị xấu thì lại rất phù hợp để sửa chữa nó lại, chuyên gia phương tây sử dụng thuật ngữ “heal the land”. Và còn lại phần lớn là các địa mạch ở mức độ trung hòa, sống tạm chấp nhận, cải tạo thì tốt thêm chút mà không cải tạo cũng chẳng vấn đề gì. Để xác định các dạng địa mạch này chỉ có cách duy nhất là tập luyện về khả năng cảm khí. Có thể luyện khả năng cảm khí nhanh hơn nếu biết về hệ thống huyệt đạo, kinh lạc của cơ thể của Đông y, điều mà các chuyên gia phương tây không có.
– Các hướng nghiên cứu về địa mạch: Có rất nhiều hướng nghiên cứu về phần này, ví dụ như sử dụng vật liệu gì là tối ưu để sửa chữa được địa mạch ở mức tương đối. Ví dụ: các khoáng vật có tính trưởng nở có thể trám lại các khe nứt và lỗ hổng do đào giếng, các khoáng vật có tính hấp phụ độc tố có thể hấp phụ được amoniac, kim loại nặng,arsen và phóng xạ tồn tại trước đó trong đất. Các khoáng vật có tính hỏa điện có khả năng chuyển hóa địa khí khá tốt.v.v.
Có những phương pháp gì để dẫn lái được địa mạch khi gặp tình trạng 1 công trình gây ra hiện tượng nghẽn mạch do vô tình, và những cách gì liên quan đến xử lý nền đất và kiến trúc xây dựng nhằm khuếch đại cộng hưởng được các dòng địa mạch để tạo môi trường tốt nhất cho con người.
– Mục đích của việc phục hồi địa mạch: địa mạch là 1 phần thuộc về quy luật tự nhiên, do đó tác dụng chính của phong thủy phương tây cũng tạo ra các điều kiện tốt nhất cho con người sinh sống, làm việc, chứ không thể kích hoạt bất cứ cái gì ví dụ như tiền tài hay công danh, hay quan chức được. Những vấn đề đó thuộc về con người và do con người làm chủ, tự nhiên không can thiệp được.
7. kết hợp với các phương pháp thuộc phong thủy ấn độ, phong thủy trung quốc tùy từng trường hợp
Phần này tôi chủ yếu sử dụng ở mức độ tham khảo thêm với các phần ở trên, phần nào bổ sung hỗ trợ cho các phân tích và tính toán dựa trên 6 phần trước thì tôi giữ lại và phát huy. Ví dụ: Các trường phái Ấn độ đặc biệt mạnh trong vấn đề về thiên khí, làm mạnh phần trung cung nhằm lan tỏa năng lượng ra toàn căn nhà- phần này tôi công nhận và đã có trải nghiệm. Các trường phái Trung Quốc thì chủ yếu là những môn nhiều người đã biết như bát trạch hay huyền không, riêng loan đầu thì rất hay là dựa vào các phương pháp nhìn của địa chất và địa mạo thì gần như trùng khít.

8. Các vấn đề thuộc về tôn giáo, tâm linh: Tôi không áp dụng bất cứ 1 phương pháp nào thuộc về tôn giáo, cái này thuộc về phạm trù của nghề khác, thuộc hệ về con người nhiều hơn là hệ tự nhiên. Và những chuyên gia phương tây tôi hay trao đổi cũng thường khuyên như vậy trong quá trình phát triển theo hướng này.
1 vài lời nói ra về các lĩnh vực tôi đang nghiên cứu, và đang làm theo các nghiên cứu đã trải qua, các số liệu đã thu thập được, qua gần 1 nghìn căn nhà tôi đã có duyên được tìm hiểu và cải tạo, mong rằng có thể đưa ra 1 góc nhìn tương đối đầy đủ về lĩnh vực phong thủy phương tây cho mọi người hiểu.

Kết quả hình ảnh cho stone circleKết quả hình ảnh cho stone circle

Địa từ (chương 9)

Chương 9 Minh giải các số liệu từ.

Minh giải các số liệu từ. Ứng dụng
Hiện nay có rất nhiều các phương pháp minh giải (giải bài toán ngược) đối với các số liệu từ, đồng thời số lượng các phương pháp đó không ngừng tăng lên.
Người ta chọn các dấu hiệu để nhóm các phương pháp đó lại với nhau. Các dấu hiệu đó là:
– Miền đo được các số liệu của hàm thế.
– Tính phức tạp của đặc trưng trường dị thường (Các dị thường đơn lẻ hay có sự chồng chất các dị thường).
– Quan hệ giữa đặc trưng xác định và đặc trưng ngẫu nhiên có trong số liệu cần minh giải.
– Sử dụng hoặc không sử dụng các mô hình vật lý trung gian. Cần so sánh hay không cần so sánh các số liệu thu được với các số liệu tính được theo mô hình.
– Tiêu chuẩn tương thích giữa giữa trường số liệu thu được và trường tính được theo mô hình.
– Các phương pháp giải bài toán ngược (giải tích, đồ thị, mô hình tương tự).

Mục lục

Minh giải các số liệu từ. Ứng dụng
9.1 Bài toán ngược cho các mô hình cơ bản………………………………………………………………………..3
9.1.1 Các dị thường Za đẳng thước không có cực tiểu…………………………………………………….3
9.1.2 Các dị thường đẳng thước Za có các cực tiểu…………………………………………………………4
9.1.3 Các dị thường dạng kéo dài…………………………………………………………………………………..4
9.2 Một số phương pháp tính toán định lượng khác…………………………………………………………….8
9.7.1 Palet Taphêep……………………………………………………………………………………………………….8
9.7.2 Phương pháp tiếp tuyến………………………………………………………………………………………..9
9.7.3 Phương pháp các đạo hàm của Logasop………………………………………………………………10
9.7.4 Các phương pháp tích phân…………………………………………………………………………………11
9.3 Phương pháp quy hoạch phi tuyến………………………………………………………………………………16
9.4 Những nguyên lý về giải bài toán ngược bằng phương pháp quy hoạch tuyến tính………18
9.5 Tiệm cận trong cửa sổ trượt………………………………………………………………………………………..19
9.6 Phương pháp phổ……………………………………………………………………………………………………….20
9.7.1 Sử dụng phổ của cường độ trường từ…………………………………………………………………..20
9.7.2 Xác định địa hình mặt phân cách gần nằm ngang………………………………………………..24
9.7 Ứng dụng của thăm dò từ……………………………………………………………………………………………26
9.7.1 Nghiên cứu địa chất khu vực……………………………………………………………………………….26
9.7.2 Tìm kiếm sắt……………………………………………………………………………………………………….34
9.7.3 Tìm kiếm các khoáng sản khác……………………………………………………………………………37

tailieumienphi.vn_dia_tu_va_tham_do_tu_chuong_9

Ứng dụng của phương pháp từ trong thực tế.

Địa từ (chương 8)

Cơ sở lý thuyết về các biến đổi trường từ
Mỗi một phép biến đổi trường địa vật lý nói chung, trường từ nói riêng bao gồm việc biến đổi các giá trị xuất phát của chúng thành các giá trị khác nhờ một thuật toán đặc biệt.
Biến đổi các trường địa vật lý được sử dụng để giải quyết các nhiệm vụ khác nhau:
1. Tính các đặc trưng bằng số của trường từ được khảo sát (các thành phần của phổ, gradient của trường,…) trên toàn bộ diện tích nghiên cứu hoặc trên một phần nào đó.
2. Tăng trưởng hay làm yếu đi ảnh hưởng của các đối tượng địa chất có kích thước và độ sâu khác nhau tạo nên trường tổng cộng.
3. Loại bỏ ảnh hưởng của các nhiễu ngẫu nhiên đối với trường cần nghiên cứu cũng như tách các dị thường yếu trên phông nhiễu.
4. Chuyển từ một thành phần trường này sang thành các thành phần trường khác (Ví dụ chuyển từ Za thành Ha hoặc từ (ΔT)a thành Za).
5. Tách các dị thường địa phương hoặc sử dụng trực tiếp các giá trị đã được biến đổi để xác định các thông số của mô hình vật lý (minh giải định lượng các số liệu từ).
6. Nghiên cứu cấu trúc của trường từ trong nửa không gian trên (đối với nguồn trường gần nhất).

Mục lục

Chương 8 Cơ sở lý thuyết về các biến đổi trường từ…………………………………………………2
8.1 Biểu diễn phổ các hàm số và các quá trình ngẫu nhiên……………………………………….2
8.1.1 Biểu diễn các hàm số bằng chuỗi và tích phân Fourier……………………………………2
8.1.2 Các tính chất cơ bản của phép biến đổi phổ…………………………………………………..7
8.1.3 Phổ của một số hàm và của các dị thường từ……………………………………………….12
8.1.4 Biểu diễn phổ các quá trình ngẫu nhiên………………………………………………………19
8.2 Phép lọc……………………………………………………………………………………………………..25
8.3 Phép trung bình hoá……………………………………………………………………………………..27
8.4 Tính chuyển trường lên nửa không gian trên…………………………………………………..30
8.5 Trend…………………………………………………………………………………………………………36
8.6 Tách các dị thường địa phương……………………………………………………………………..39
8.6.1 Vi phân bằng số……………………………………………………………………………………….40
8.6.2 Tính đạo hàm thẳng đứng………………………………………………………………………….42
8.7 Tiếp tục giải tích trường xuống nửa không gian dưới……………………………………….44
8.8 Tính chuyển lẫn nhau giữa các thành phần của trường từ………………………………….47
8.8.1 Tính thành phần nằm ngang Ha từ thành phần thẳng đứng Za………………………..47
8.8.2 Tính chuyển Za từ (ΔT)a…………………………………………………………………………..47
8.8.3 Tính chuyển trường về cực………………………………………………………………………..49
8.8.4 Phương pháp quy trường về xích đạo…………………………………………………………51

tailieumienphi.vn_dia_tu_va_tham_do_tu_chuong_8

Địa từ (chương 7)

Từ nhiều thế kỷ trước người ta đã tiến hành đo các yếu tố trường từ của quả đất.
Số trị và dấu của độ từ thiên D được xác định theo hiệu số giữa các phương vị thiên văn và phương vị từ của một vật thể xác định tại mỗi một điểm. Trong trắc địa, phương vị thiên văn được xác định theo các phương pháp đã có sẵn, còn phương vị từ được xác định bằng các dụng cụ đo từ.
Để đo giá trị tuyệt đối thành phần nằm ngang trường từ quả đất (H) người ta thường dùng hoặc têôđôlit từ nhằm xác định chu kỳ dao động của nam châm đồng thời với việc xác định góc lệch của một nam châm khác, hoặc dùng các từ kế thạch anh Lacua (QMH).
Để đo độ từ khuynh người ta dùng các máy đo độ nghiêng theo phương pháp cảm ứng hoặc dùng kim nam châm.
Hiện nay để đo giá trị tuyệt đối của véctơ cường độ trường từ của quả đất người ta dùng các từ kế hạt nhân. Các từ kế này ngày càng được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực khác nhau. Ta hãy lần lượt xét đến một số nguyên lý đo từ được sử dụng từ trước đến nay, tuy rằng ngày nay các máy hiện đại đã dần dần thay thế các máy từ làm việc theo các nguyên lý cổ điển

Mục lục

Chương 7 Các phương pháp đo các thành phần trường từ quả đất…………..2
7.1 Phương pháp tương tác từ………………………………………………………………2
7.2 Phương pháp cảm ứng điện từ…………………………………………………………8
7.3 Từ kế hạt nhân và từ kế lượng tử………………………………………………….10
7.4 Phương pháp đo đạc và xây dựng các bản đồ từ………………………………..12
7.4.1 Phương pháp đo từ hàng không………………………………………………..13
7.4.2 Phương pháp đo từ mặt đất……………………………………………………..18
tailieumienphi.vn_dia_tu_va_tham_do_tu_chuong_7

Chương 7 là các loại máy móc, phương pháp đo đạc từ trường- dành cho các chuyên gia đo từ.