Máy radar xuyên đất

Nói đến sóng radar, từ vài năm trước tôi đã để ý lắm rồi, nhiều khi thèm cầm cái máy radar xuyên đất mà cứ đi ngủ là mơ, mấy ngày liền được cầm nó lôi đi đo đất. Rồi máu lên, nhiều khi định chế riêng thử em nó, lấy radar đầu phát sóng từ bộ dao động trong lò vi sóng; lấy radar đầu thu từ ô tô cũ; nhưng 1 giới hạn không vượt qua được là bộ đếm thời gian chính xác đến 1/ tỉ giây; bởi sóng điện từ đi được 1 foot mỗi 1 nano giây, nên máy này muốn chính xác phải vượt qua được giới hạn về tính chính xác của bộ đếm, bởi vậy mà máy này toàn đơn vị 500 triệu đổ lên với mẫu đơn giản, cho đến vài tỉ với một máy hiện đại.
Bởi tiềm năng của việc hiểu rõ được sóng radar là rất lớn ngoài mục đích để đo các phản xạ xáo trộn dưới lòng đất, phát hiện các hiện vật dưới lòng đất ra thì nó còn cho người đo hiểu các nguyên lý phản xạ sóng trên mặt đất, trong các loại công trình và trong các cách của người châu âu đã xây dựng các công trình kiến trúc linh thiêng tương ứng với các chòm sao. Tất cả những công trình đó đều có 1 có phần áp dụng những nguyên lý trong phân tích sóng radar này. Bộ giáo trình radar xuyên đất tôi sẽ tổng hợp và chia sẻ cho mọi người vào 1 dịp thuận lợi.

Posted by Duy Tuan on Friday, May 17, 2019

Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: trong nhàTrong hình ảnh có thể có: trong nhàTrong hình ảnh có thể có: trong nhàKhông có mô tả ảnh.

Kiến trúc cổ đại và công nghệ tàng hình

Tôi được tiếp cận với những kiến thức về kiến trúc cổ đại qua 1 bài viết của 1 kỹ sư quân sự radar người Anh, ông đã nói về các kỹ thuật xây dựng từ vài nghìn năm trước có những tính chất rất giống với cách chúng ta phát triển công nghệ tàng hình cho máy bay quân sự ngày nay. Về mặt nguyên lý, người xưa đã sử dụng các loại đá trộn lẫn vào nhau để xây những tòa tháp cao và đặt chúng tại những vị trí đất có năng lượng cực cao (tây gọi là vortex, các điểm xoáy năng lượng, ta thì gọi là huyệt), các tòa tháp này với chiều cao đã được tính toán trước có chức năng phát tán nguồn năng lượng địa mạch lan ra xa hơn thông thường (sau vài năm thì tôi biết được rằng chiều cao này tương thích với dải tần radio vũ trụ phát ra từ chòm cung thủ Sagittarius A)- mà việc biết được tần số với độ dài bước sóng lại liên quan đến phương trình lamda= v/f sau đó vài nghìn năm lịch sử, về vật liệu để xây dựng lại là sự phối trộn giữa các loại đá có đặc tính thuận từ với các loại đá có tính nghịch từ. Các loại đá có thể cắt thành những khối lớn, 1 số loại lại được đập nhuyễn ra trộn với 1 số chất gắn kết để tạo thành xi măng- tức về nguyên lý vẫn phải tuân theo tính chất từ trường của loại đá.
Khi tiếp cận đến giai đoạn này, tôi nhận thấy đây là 1 lối phong thủy hệ thiên cực kỳ cổ đại và nó đã có hệ thống từ lâu nhưng vẫn trong vòng bí mật (dòng địa chỉ quan tâm đến địa mạch, dòng thiên theo lối này lại là cách xây dựng các công trình sao cho thu được tốt nhất năng lượng từ cả hệ địa và hệ thiên), 1 số câu hỏi từ đó khiến tôi phải suy nghĩ và tìm lời giả đáp:
1. Bản chất các bộ phận cấu thành tòa tháp- tương ứng với tất cả các dòng kiến trúc cổ đại đến từ Bắc Âu đến Tây Tạng, Trung Đông đến Đông Á v.v. đều xây dựng các tòa tháp tại các vị trí đối với họ là linh thiêng, thì các bộ phận riêng biệt của tòa tháp sẽ phản ứng thế nào với các dạng sóng điện từ trường đến từ các chòm sao (thiên) và từ địa mạch trái đất (địa). Ví dụ tháp bắc âu liên quan đến chòm sagittarius A?
2. Làm thế nào để chế tạo ra vật liệu có các đặc trưng tương tác với sóng điện từ như sau: Phản xạ sóng điện từ, Hấp thụ sóng điện từ, tán xạ sóng điện từ, tập trung sóng điện từ trong vật liệu?
3. Cách thiết kế kiến trúc như thế nào để tạo ra sự phản xạ hay hấp thụ sóng hiệu quả nhất?
4. Các đơn vị cổ đại từ các nền văn minh vì sao lấy kích thước của hoàng gia cổ đại ai cập làm đơn vị chuẩn?
Phải mất vài năm loay hoay đi tìm lời giải đáp, tôi gần như không tìm ra lời giải đáp, cho đến khi vô tình đọc về công nghệ tàng hình máy bay trong khoa học quân sự thì có thể cho tôi vài nguyên lý cốt lõi. Về mặt nguyên lý, máy bay muốn tàng hình thì các chùm sóng radar phát ra từ hệ thống phòng không khi tương tác vào máy bay phải bị hấp thụ càng nhiều càng tốt, bởi nếu phản xạ thì hệ thống phòng không sẽ phát hiện ra được máy bay đó, do đó vật liệu được phủ bên ngoài máy bay sẽ là loại vật liệu hấp thụ sóng điện từ chứ không thể là vật liệu phản xạ sóng điện từ được.
Bỏ qua các công nghệ phát radar chủ động với cường độ bằng nhưng ngược pha với hệ thống phòng không để triệt sóng, thiết kế sao cho ít góc phản xạ nhất có thể để giảm độ phản xạ thì công nghệ tàng hình mà tôi có thể tiếp cận được là: vật liệu hấp thụ sóng radar và kiến trúc để hấp thụ sóng radar. Sóng điện từ do có 2 thành phần là phần điện trường và phần từ trường do đó trong loại vật liệu hấp thụ sóng này sẽ gồm 2 loại vật liệu chính, 1 là loại dẫn điện cao 2 là loại có độ thẩm từ tốt; để nâng cao được hiệu suất hấp phụ thì tỉ lệ giữa 2 loại vật liệu này sẽ phải được tính toán- 2 loại vật liệu chính lại được phối trộn với 1 số các vật liệu phụ khác để làm tăng đặc tính hấp thụ sóng gọi chung là chất trộn- được bao bọc trong 1 loại vật liệu khác không dẫn điện gọi là chất mang, thường được làm từ nhựa có đặc tính chịu nhiệt, cơ học cao.
Lớp vật liệu trên máy bay này, hay lớp tường bao bọc các công trình cổ đại có năng lượng cao, tôi đều nhận thấy có 1 tính chất chung: Đó là chuyển năng lượng của sóng điện từ thành nhiệt, với hiệu ứng của thời đại ngày nay thì mạnh hơn nhiều và mang tính nhân tạo- khi phải thiết kế hệ thống quạt làm mát trong máy bay quân sự vì sóng radar từ hệ thống phòng không đối phương tạo ra nguồn phát sóng rất mạnh, các vật liệu hấp thụ sóng vì chuyển hóa quá nhiều sóng điện từ mà sinh ra nhiệt năng lớn. Còn với các công trình cổ đại là thu khí một cách tự nhiên, đến bao nhiêu nhận bấy nhiêu, hay có thể gọi là tạo ra nguồn sinh khí, dương khí có nhiệt tính 1 cách tự nhiên từ việc hiểu sự vận hành của trái đất và vũ trụ- tôi coi đây cũng chính là 1 phần bản chất của phong thủy , khi chúng ta tính toán tiếp sự tương tác của các trường sóng điện từ với đối tượng là nước và không khí.

Tháp bắc âu ailen, cộng hưởng với chòm sagittarius A

Trong hình ảnh có thể có: bầu trời, đám mây, thực vật, cây, cỏ, ngoài trời và thiên nhiên

Chòm sagittarius- trung tâm của dải ngân hà- nguồn phát chính sóng điện từ tần số radio tới trái đấtKhông có mô tả ảnh.

Tính chất phản xạ radar dựa trên hình dạng của máy bay quân sự- liên kết đến bài Radar các bạn sẽ nhận thấy tầm quan trọng của việc chọn vật liệu- để ứng dụng như giải pháp chấn trạch trong phong thủy

Trong hình ảnh có thể có: văn bản cho biết 'CORNER DIFFRACTION EDGE SPECULAR DIFFRACTION SURFACE SURFA RETURN CREEPING INTERACTION WAVE ECHO TIP IP RETURN DIFFRACTION CAVITY RETURN TRAVELING WAVE CURVATURE ECHO ECHO DISCONTINUITY RETURN GAP GAP OR SEAM ECHO'

hệ thống vật liệu tạo phản xạ lặp nhiều lần nhằm tăng hiệu suất hấp thụ sóng điện từ- với hình dạng hiệu quả nhất là kim tự tháp có góc dốc lớn

Trong hình ảnh có thể có: trong nhà

Phản xạ lặp ngẫu nhiên trong ma trận được sắp xếp từ vật liệu trộn nhằm hấp thụ, giảm dần cường độ sóng điện từ.
incident wave: sóng đến, reflector wave: sóng phản xạ; resin matrix: khối nhựa

Trong hình ảnh có thể có: văn bản cho biết 'incident wave reflector wave I ACNTs I resin matrix Metal substrate outer diameter single graphene sheet tube outer-wall incident wave reflector wave inner diameter'

Trong hình ảnh có thể có: đám mây, bầu trời và ngoài trời

Radar- bộ môn quan trọng trong phong thủy

Trong lĩnh vực phong thủy địa mạch trên thế giới, đã có rất nhiều chuyên gia xuất phát điểm là chuyên gia về radar, đó là 1 trong những điểm tôi rất thắc mắc và sau này khi đi sâu vào lĩnh vực radar, cái thắc mắc từ lâu của tôi đã có lời giải đáp. Hóa ra 2 lĩnh vực tưởng chừng không ăn nhập gì với nhau là phong thủy địa mạch với nghiên cứu sóng radar lại trùng nhau rất nhiều điểm. Rất nhiều nguyên lý hiển thị về sự phân bố của các dạng địa mạch trong lòng đất, về cách khuếch đại năng lượng, về cách hóa giải, hấp thụ hay dẫn sóng năng lượng- kể cả năng lượng như chúng ta đã biết hay các dạng năng lượng sinh học (cái phần nhiều chúng ta nghi ngờ), hay để giải đáp thắc mắc vì sao nước lại đóng vai trò quan trọng trong phong thủy đến thế?, hay vì sao địa hình cao thấp lại quyết định đến năng lượng địa mạch? đều có 1 điểm chung nào đó; điểm chung đó được gọi là: sự tương tác của sóng điện từ trường lên các loại vật chất (với tính chất về điện và từ) thể hiện qua các phản ứng: hấp thụ, triệt tiêu, phản xạ, truyền dẫn.
Nhiều người hỏi cơ chế của những cục mà tôi đã làm để hóa giải các dòng bức xạ hỗn độn từ lòng đất- có thể gọi là tia đất, thì tôi cũng chẳng giấu nữa, 30% cơ chế và nguyên lý để tạo ra nó nằm trong trích đoạn tài liệu dưới đây- các nguyên lý chặn và hấp thụ sóng radar áp dụng cho máy bay tàng hình, khi nắm chắc được nguyên lý thì ta sẽ tự tìm ra được các kỹ thuật tương tác với mạch đất.

Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bản

Phân tích quy luật góc hợp của quỹ đạo mộc tinh và thổ tinh

Phân tích quỹ đạo các thực thể hành tinh có thật (góc hợp aspect của cặp sao thổ- sao mộc) lại thấy rất nhiều điểm trùng với môn phong thủy địa mạch! Mọi thứ có vẻ ngày càng hay!
Nguồn: Designed by DuyTuan
Ảnh 1: Vị trí các hành tinh vào ngày 29/12/2020- thời điểm tôi chọn để thiết lập bảng astrology thể hiện thời điểm sao mộc và sao thổ ở gần nhau nhất trong vài chục năm gần đây.
Ảnh 2: Không tự nhiên các nền văn minh cổ đại đầu tiên lại sử dụng hệ lục thập phân tức số 60; giống như ở ta vẫn dùng thiên can địa chi, lục thập hoa giáp vậy.
Ảnh 3 4,5,6: Chu kỳ 60 năm tính từ lúc vị trí thổ tinh và mộc tinh ở gần nhau nhất thể hiện cho 1 chu kỳ vận hành của 2 sao này; với mỗi 10 năm là 1 chu kỳ thiên can lại tạo ra 1 vị trí 1 cánh của bông hoa 6 cánh (trong đó cách 10 năm mộc tinh với thổ tinh chạy ra xa đối nghich nhau, 20 năm lại gần trùng nhau (conjunction)); 60 năm tạo ra 6 cánh của biểu tượng này.

Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.

Mối liên quan giữa bão từ Măt Trời nói riêng và các hành tinh nói chung (thiên )và đặc điểm địa chất (địa)

Các đợt bão từ thường xuyên xảy ra và phụ thuộc vào cường độ của nó mà giới khoa học cảnh báo đến toàn xã hội. Chỉ những cơn bão lớn đủ gây thiệt ại nặng thì mới được cảnh báo, còn các cơn bão nhỏ hơn thì hoàn toàn ko được biết. Các công trình đo từ trường tôi tham gia trước đây, trung bình 1 tháng cũng phải có 2 đến 3 ngày là có 1 đợt bão từ nhỏ (làm tăng giá trị địa từ trong thời gian cao điểm của ngày lên tầm 700 nanoTesla)- làm khó khăn cho công tác minh giải số liệu từ chuẩn của vùng đất đó lên rất nhiều. Những khó khăn trong công tác minh giải số liệu thời gian đó khiến tôi quan tâm đến ảnh hưởng của bão từ rất nhiều, và qua một số bài báo dưới góc nhìn của nghành địa chất với nghành điện cũng vô cùng hay bởi nó có thể dự báo được thiệt hại của nghành điện do bão mặt trời do sự khác biệt địa chất gây ra. Ở quy mô khu vực, cấu trúc địa chất cơ bản có thể có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng thiệt hại của cơn bão từ.
1. Xét về đặc tính dẫn điện của loại đá: Đá trầm tích có xu hướng có không gian lỗ rỗng chứa nước, khiến chúng dẫn điện. Còn Đá biến chất và đá magma đặc hơn và ít xốp hơn và do đó có điện trở cao hơn.
Trong một cơn bão địa từ, hoạt động từ tính gây ra dòng điện trên bề mặt hành tinh có thể gây rắc rối cho một thành phố được xây dựng trên nền địa chất là đá biến chất hoặc đá magma. Mặc dù dòng điện không thể dễ dàng chảy qua những tảng đá này, nhưng nếu làm giảm phần cách điện của trái đất với nguồn từ từ Mặt Trời bằng hệ thống lưới điện nhân tạo (các cột điện được chôn sâu trong đất, có khoảng cách đều nhau, có chiều cao lớn được nối bởi dây điện), thì ảnh hưởng của bão từ sẽ gây ra thiệt hại càng lớn.
Do đó, khi có 1 cơn bão từ đủ lớn, thành phố nằm trên vùng đá trầm tích có thể không bị ảnh hưởng gì, trong khi cách đó vài chục km, với đặc điểm địa chất nằm trên vùng đá có điện trở cao hơn thì hệ thống điện có thể bị thiệt hại bởi cùng cơn bão từ đó.
2. Xét về thủy văn: Địa chất liên quan đến vùng biển cũng gây phức tạp hóa vấn đề. Dọc theo bờ biển có cả cát điện trở cao và nước biển dẫn điện. Điều đó có thể tạo ra hiệu ứng channel, theo đó dòng điện tích tụ dọc theo bờ biển. Do đó bất kỳ lưới điện nào chạy dọc bờ biển cũng sẽ dễ bị ảnh hưởng hơn.
3. Xét về góc hợp giữa hướng của tập địa tầng với hướng của dòng điện: Hướng của lưới điện được định hướng cũng đóng một vai trò quan trọng. Các đường điện chạy vuông góc với hướng của dãy núi làm tăng khả năng thiệt hại nhiều hơn so với lưới chạy song song với chúng.
3. Xét về góc hợp giữa hướng của tập địa tầng với hướng của dòng điện: Hướng của lưới điện đưtợc định hướng cũng đóng một vai trò quan trọng. Các đường điện chạy vuông góc với hướng của dãy núi làm tăng khả năng thiệt hại nhiều hơn so với lưới chạy song song với chúng.
4. Những quy luật được đúc rút ra từ sự tương tác của bão từ với bề mặt Trái Đất cũng giống như sự tương tác của các hành tinh, các chòm sao khác, với mỗi chòm có 1 cường độ và dải tần số khác nhau (yếu hơn nhiều so với mặt trời những vẫn hiện hữu, 1 số chòm đủ mạnh các thiết bị hiện đại ngày nay vẫn đo được ví dụ như chòm saggitarius, Andromeda v.v.) tương tác lên trái đất. Các mạng lưới điện ngày nay rõ ràng rằng ngày càng phát triển mạnh, phân bố theo hình dạng của từng ngôi nhà, từng căn phòng và do đó càng làm sự tương tác của các thiên thể trên bầu trời tới nơi ta ở mạnh lên; các vùng địa chất khác nhau cũng làm tăng yếu tố ảnh hưởng bởi yếu tố thiên lên 1 ngôi nhà; hệ thống thủy văn là nước vốn mang theo khoáng chất là 1 vật dẫn điện lại càng làm cho yếu tố thiên tương tac mạnh hơn nữa (theo hình của mạch nước); địa hình (tương tác ở đỉnh bao giờ cũng mạnh hơn ở trũng do đặc tính hội tụ ion điện).

Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bản

Môi trường và phong thủy địa mạch

Sự phá hủy môi trường sống khiến chất lượng cuộc sống của chúng ta ngày càng suy giảm mà đến hiện này thì ngày càng nhiều người nhận ra hậu quả của nó. Tôi nhận thấy môi trường bị ô nhiễm không những ảnh hưởng đến những chỉ số có thể đo đếm như ô nhiễm nước, ô nhiễm đất, hay không khí mà nó còn ảnh hưởng đến những giá trị không thể đo đếm được khác như về phong thủy, về năng lượng của các mạch đất. Tuy nhiên, tại bài mở đầu này, tôi chỉ nói hết sức tóm tắt về cơ chế của các thông số có thể đo đạc được, 1 trong những cơ chế quan trọng đầu tiên phải nhắc đến là thạch tín (asen) bởi nó không màu, không mùi không vị nhưng là chất kịch độc, được lan truyền bởi chất liệu không thể thiếu là môi trường nước và tiếp theo là nó là chất độc bị phân tán mạnh theo sự khai thác nước, khoan giếng của mọi người.

Ô nhiễm arsen bắt đầu nhen nhóm nghiên cứu từ năm 1983 khi mà tại bang Tây Bengal của Ấn Độ người ta đã phát hiện trên 200.000 ca nhiễm độc và trên một triệu người đang nằm trong vùng bị phơi nhiễm. Tại Bangladesh, một quốc gia đứng đầu về số lượng giếng khoan bơm tay của khu vực Châu Á, từ năm 1993 sự nhiễm độc nước giếng do asen càng được lớn và tới nay đã có khoảng 35 đến 77 triệu người có nguy cơ bị nhiễm độc. Tổ chức y tế thế giới mô tả sự kiện này là “một thảm họa môi trường lớn nhất từ trước tới nay”. Với đặc điểm địa chất rất giống với vùng đồng bằng Bangladesh, đồng bằng sông hồng cũng nằm trong khu vực bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm asen do tính chất tự nhiên có nguồn gốc từ đá gốc vùng Himalaya, nơi các trầm tích có chứa asen tự nhiên được vận chuyển xuống các lưu vực sông ở hạ lưu đông dân cư bên dưới.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng 21,5% dân số Việt Nam (tương đương với 17,2 triệu người) đang sử dụng nguồn nước ăn từ nước giếng khoan, đây là nguồn nước dễ bị nhiễm asen.
Có thể tóm tắt rằng Asen có 2 dạng tồn tại chủ yếu là ở vùng núi và vùng đồng bằng.

1. Dạng tồn tại của Asen ở vùng núi
Tại vùng núi, asen nằm trong đá và các mỏ quặng nhiệt dịch mà chủ yếu dưới dạng các khoáng vật như: arsenopyrit (FeAsS), chu sa, thần sa, hùng hoàng v.v. Như ở nước ta, các mỏ quặng nhiệt dịch đặc trưng của vùng Tây Bắc cũng là nguồn phát tán Asen. Theo thời gian, các hoạt động phong hóa diễn ra khiến các đá gốc bị phong hóa thành đất, một phần asen bị rửa lũa và chảy xuống theo dòng nước để đến hạ lưu nhưng vẫn giữ lại phần lớn Asen.
Những nguyên nhân gây tăng ô nhiễm asen:
– xáo trộn các tầng đất do hoạt động xây dựng, khai thác quặng, khoan giếng tại vùng đất có chứa nhiều khoáng vật arsernopyrit khiến cho arsernopyrite bị oxy hóa; asen bị phát tán mạnh vào môi trường.
– Thời tiết trong giai đoạn nắng to sau đó mưa lớn cũng khiến xuất hiện khí có thành phần là hợp chất asen và các dạng khí khác mà dân gian gọi là chướng khí, đặc biệt khi vùng đó có hệ thống đứt gãy dày đặc và gần sát bề mặt đất. Các khu vực dân cư nằm trên các đới khoáng hóa quặng nhiệt dịch có thể bị ảnh hưởng nhiều hơn khi trong giai đoạn thời tiết này.

So sánh hướng vận chuyển trầm tích của Bangladesh và Bắc Việt NamKhông có mô tả ảnh.

2. Dạng tồn tại của Asen ở vùng đồng bằng
Tại vùng đồng bằng, hệ thống nước ngầm và đặc tính của loại đất chiếm 1 vai trò quan trọng. Hệ thống nước ngầm gồm tầng chứa nước Holocen (tầng trên) và tầng chứa nước Pleistocen (tầng dưới).
Thành phần thạch học chủ yếu của tầng chứa nước này là cát, cát pha, sét pha với độ sâu phân bố từ khoảng 16 – 25m chiều dày thay đổi từ 0 -15,5m trung bình 14,0m. Mực nước tĩnh thay đổi từ 0,5 – 4m.
Tầng chứa nước Pleistocen (tầng dưới) có thành phần thạch học chủ yếu của tầng này gồm cát, sạn, cuội sỏi với bề dày thay đổi trong phạm vi khá lớn từ 9,97 – 30,8m ở phía bắc đến 35 – 45m, có nơi trên 60m ở phía Nam đồng bằng sông hồng.
Tầng chứa nước Holocen(tầng trên) đo được thường có độ ô nhiễm cao hơn so với tầng chứa nước Pleistocen sạch hơn ở dưới.
Những nguyên nhân gây tăng độ ô nhiễm Asen tại vùng đồng bằng:
– Việc khai thác nước ngầm quá mức khiến mực nước ngầm bị hạ, khiến cho môi trường oxy – môi trường khử vốn tồn tại hàng nghìn năm bị thay đổi quá đột ngột sẽ làm tăng lượng Asen bị phát tán vào nước ngầm.
– Khoan quá nhiều giếng khoan khiến cho lượng nước bị nhiễm asen nặng thấm vào tầng nước sạch Pleistocen bên dưới; sau khi giếng không sử dụng nữa lại không có biện pháp lấp giếng đúng tiêu chuẩn nên nước từ tầng nước bẩn phía trên mãi mãi ngấm xuống dưới. Đôi khi tôi thấy nhiều hộ dân lấp giếng chỉ bằng cách làm đúng cái nắp bê tông đậy lại miệng giếng.
– chỉ trừ 1 số vùng đất đặc biệt như vùng đá ong có hàm lượng sắt cao, nhôm ít thì hiện tượng ô nhiễm lan vào các tầng nước sạch giảm bớt.
– Than bùn giàu vật chất hữu cơ là các vật liệu hấp phụ asen và các kim loại nặng khác, khi khai thác, cày xới lên thì nó phát tán trả lại môi trường.

Hướng vận chuyển trầm tích từ các dãy núi cao Himalaya đến Bangladesh

Không có mô tả ảnh.

3. Cơ chế tạo thành và lắng đọng Asen
– Arsenopyrit là khoáng vật sulfur có As và Fe: FeAsS khi phơi lộ ra không khí ẩm, nó nhanh chóng bị oxy hoá tạo thành hợp chất arsenat:
– 4FeAsS + 13O2 + 6H2O  4 FeSO4 + 4H3SO4
– Arsenat trong môi trường tự nhiên dễ dàng chuyển hoá thành H2AsO4-2 và HAsO3- di chuyển trong nước, hấp thụ vào trong đất, trong bùn và thực vật.

Hình minh họa về các đới đứt gãy cắt qua vùng đá có quặng arsenopyrite với khu dân cưKhông có mô tả ảnh.

4. Cách để giảm ảnh hưởng do Asen gây ra
– Ý thức trong bảo vệ tài nguyên nước cần phải được thay đổi, chúng ta dùng nước cần phải ý thức được những hệ quả của việc dùng lãng phí. Với những công trình khoan giếng phục vụ trong sinh hoạt, chúng ta cần tuân thủ đúng các quy tắc lấp giếng để đảm bảo không để nước tầng trên chảy xuống tầng dưới.
– Ý thức trong vấn đề bảo vệ tài nguyên đất, quặng; khi khai thác tức chúng ta làm xáo trộn môi trường của đất, quặng, từ môi trường khử (nằm sâu trong lòng đất) thành môi trường oxy hóa (lộ ra không khí) do đó chí ít khai thác xong cũng cần phủ lại thảm thực vật để trả lại môi trường khử cho môi trường đất.
– Phần lớn các nhà máy nước có cơ chế lọc Asen hiệu quả, gồm quy trình dẫn nước bề mặt, nước dưới đất qua dàn phun và lọc qua bể lọc gồm sỏi, cát thông thường, do quá trình khử sắt trong nước cũng khử phần lớn Asen trong nước nên người dân ở những vùng dùng nước giếng khoan nên chuyển sang dùng nước máy để ăn uống.
– 1 góc nhìn khá thú vị rằng khi thống kê, một số tác giả nhận định rằng đặc tính di truyền của người Việt có cơ chế chống chịu tốt hơn với nồng độ Asen so với các dân tộc khác ở Bangladesh có lẽ là liên quan đến lịch sử lâu đời sống trong môi trường rừng nhiệt đới.
——————————–
– Bàn thêm về cơ chế, việc chúng ta đào xới, khoan giếng làm thay đổi môi trường oxy hóa- khử của đất cũng giống như trong dân gian gọi là động mạch đất; nó có gây ra những biến động về mặt năng lượng với mạch đất đó với nguyên nhân cơ học (thay đổi trật tự của các lớp đất, cái dễ nhìn nhận, dễ phát hiện) và nguyên nhân hóa học (nước bị thay đổi tính chất, cái khó phát hiện ra) do đó nó để lại hậu quả ngắn hạn và dài hạn không thể suy đoán được về phong thủy 1 ngôi nhà. Ví dụ: Nhà tôi có thể không làm gì cả, nhưng 1 nhà khác gần đó động chạm đến 1 mạch nước mà đi qua nhà tôi thì tôi vẫn bị ảnh hưởng. Với 1 quy mô lớn hơn, làng xóm ở vùng thượng lưu phá đất thì ảnh hưởng đến làng bên cạnh ở vùng hạ lưu. Vùng núi khai thác mỏ nhiều nhưng không hoàn thổ thì ảnh hưởng đến vùng đồng bằng đông dân cư bên dưới. v.v.
——————–
Tài liệu tham khảo:
1. NGUY CƠ Ô NHIỄM ARSEN TRONG MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA. ĐẶNG VĂN CAN, ĐỖ TRỌNG SỰ và nnk
2. PGS. TS Trần Hồng Côn (Khoa Hóa – Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội)
3. Cơ chế làm chậm sự di chuyển của asen qua tầng chứa nước sâu Pleistocene” gồm Alexander van Geen, Benjamın C. Bostick, Phạm Thị Kim Trang và nnk

 

Hệ thống tọa độ thiên văn và ứng dụng trong địa mạch

Hiện nay, trong thiên văn chủ yếu sử dụng 2 hệ tọa độ phổ biến là hệ tọa độ xích đạo và hoàng đạo.

1. Hệ tọa độ hoàng đạo là một hệ tọa độ thiên văn sử dụng mặt phẳng hoàng đạo làm mặt phẳng tham chiếu.
Mặt phẳng hoàng đạo là mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất khi quay quanh Mặt Trời. Hình chiếu của mặt phẳng quỹ đạo Trái Đất lên thiên cầu vẽ thành đường hoàng đạo.Hệ tọa độ này thuận tiện khi xác định vị trí của các hành tinh và các thiên thể trong Hệ Mặt Trời và chia được 12 cung hoàng đạo mà thiên văn hay chiêm tinh đều sử dụng phổ biến.
2. Hệ tọa độ xích đạo là hệ tọa độ thiên văn được sử dụng nhiều cho các quan sát bầu trời từ Trái Đất.
Nó là hệ tọa độ gắn bó chặt chẽ với hệ tọa độ địa lý, vì ở đây người ta sử dụng chung một mặt phẳng quy chiếu và chung các cực. Hình chiếu của xích đạo Trái Đất lên thiên cầu được gọi là thiên xích đạo hay xích đạo trời. Tương tự, chiếu các cực địa lý lên thiên cầu ta sẽ có thiên cực bắc và thiên cực nam.

Không có mô tả ảnh.

Tuy nhiên, 2 hệ tọa độ này rất khó ứng dụng vào 1 môn đặc thù là phong thủy, nơi cần phải làm rõ được vị trí của 1 hành tinh trong mặt trời trên bầu trời khi chiếu xuống đến mặt đất thì nằm tại hướng chính xác đến độ/ phút là vị trí nào, do đó có 1 hệ tọa độ ít phổ biến hơn nhiều là hệ tọa độ chân trời đã được sử dụng đầu tiên ghi chép được là 3000 năm trước, và gần như bị lãng quên trong vài trăm năm gần đây tại châu âu khi hệ tọa độ 12 cung hoàng đạo quá tiện lợi trong tính toán thiên văn. Hệ tọa độ chân trời, do độ khó và phức tạp khi chuyển đổi từ hệ tọa độ xích đạo và hoàng đạo, mãi đến khoảng 30 năm gần đây khí phần mêm máy tính tính thay mới trở lại phổ biến để hình thành lại cách tính thời cổ đại về ý nghĩa của năng lượng các hành tinh chiếu theo 360 độ phương hướng nằm ngang.
3. Hệ tọa độ chân trời ứng dụng trong phong thủy phương đông và phong thủy địa mạch
Ứng dụng của hệ tọa độ này là rất khả quan khi tính toán được, khi thiếp lập 1 lá số của 1 người, nó là vị trí các hành tinh theo hệ tọa độ hoàng đạo, do đó khi chuyển đổi xong từ hệ hoàng đạo sang hệ chân trời. Ta có thể biết vị trí những hành tinh tương đối tốt (trong lá số) với người đó nằm tại chính xác tại hướng nào, và những hành tinh không tốt nằm tại hướng nào. Từ đó, ứng dụng trong nội khí căn nhà, khi vẽ hướng các hành tinh trong 1 căn nhà, ta sẽ tập trung những nơi quan trọng trong nhà như bàn thờ tại các nơi có sao Jupiter mộc tinh, Mo mặt trăng (mặt trăng mạnh, ở vị trí tốt trong lá số); những nơi để học tập và làm việc sẽ theo sao Me thủy tinh (không bị sao xấu chiếu aspect) hoặc Ju mộc tinh; đặc biệt nếu như các hành tinh nằm tại các vị trí mạnh và thuận lợi như dig bala, nằm tại cung chủ tinh hay vượng, tướng; nằm tại 4 hướng tứ chính cardinal Nam, Bắc, Đông, Tây v.v. Nên Tránh đặt những vị trí quan trọng tại nơi có sao xấu chiếu qua như Saturn thổ tinh, Trục Rahu la hầu – Ketu kế đô và Mar hỏa tinh.
Với cách cục ngoài nhà, có thể xác định hướng và vị trí của địa mạch đi vào nhà này theo trục nào ứng với các thành viên trong nhà để tìm cách ứng xử. Ví dụ mạch hướng nhâm đổ về có thể kích hoạt các sao có trục Bắc- Nam với 1 người có lá số mà các hành tinh xấu, đặc biệt tù tử nằm ở vị trí Bắc- Nam của lá số. Tương tự cách tính như vậy với vị trí thủy, công trình lớn trong bán kính 100m v.v. Hoặc, với 1 người trong giai đoạn nào đó cần phải đi đến 1 vùng đất khác để lấy lại cân bằng thì nên đi theo trục nào v.v.

Không có mô tả ảnh.

Bản đồ đường chiếu của các sao lên 1 vùng đất theo hệ tọa độ chân trời cho 1 cá nhân.

Các bạn có thể tham khảo về hệ tọa độ chân trời bằng tiếng anh tại đây:

Horizontal coordinate system

Horizontal coordinates use a celestial sphere centered on the observer. Azimuth is measured eastward from the north point (sometimes from the south point) of the horizon; altitude is the angle above the horizon.
The horizontal coordinate system, also known as topocentric coordinate system, is a celestial coordinate system that uses the observer’s local horizon as the fundamental plane. Coordinates of an object in the sky are expressed in terms of altitude (or elevation) angle and azimuth.

Definition
This celestial coordinate system divides the sky into two hemispheres: the upper hemisphere, where objects above the horizon are visible, and the lower hemisphere, where objects below the horizon cannot be seen, since the Earth obstructs views of them. The great circle separating the hemispheres is called the celestial horizon, which is defined as the great circle on the celestial sphere whose plane is normal to the local gravity vector.[1] In practice, the horizon can be defined as the plane tangent to a still liquid surface, such as a pool of mercury.[2] The pole of the upper hemisphere is called the zenith. The pole of the lower hemisphere is called the nadir.[3]

The following are two independent horizontal angular coordinates:

Altitude (alt.), sometimes referred to as elevation (el.), is the angle between the object and the observer’s local horizon. For visible objects, it is an angle between 0° and 90°.
Alternatively, zenith distance may be used instead of altitude. The zenith distance is the complement of altitude, so that the sum of the altitude and the zenith distance is 90°.
Azimuth (az.) is the angle of the object around the horizon, usually measured from true north and increasing eastward. Exceptions are, for example, ESO’s FITS convention where it is measured from the south and increasing westward, or the FITS convention of the Sloan Digital Sky Survey where it is measured from the south and increasing eastward.
The horizontal coordinate system is sometimes called other names, such as the az/el system,[4] the alt/az system, or the alt-azimuth system, from the name of the mount used for telescopes, whose two axes follow altitude and azimuth.[5]

General observations

A sunset over the horizon of the Mojave Desert, California, USA
The horizontal coordinate system is fixed to a location on Earth, not the stars. Therefore, the altitude and azimuth of an object in the sky changes with time, as the object appears to drift across the sky with Earth’s rotation. In addition, since the horizontal system is defined by the observer’s local horizon, the same object viewed from different locations on Earth at the same time will have different values of altitude and azimuth.

Horizontal coordinates are very useful for determining the rise and set times of an object in the sky. When an object’s altitude is 0°, it is on the horizon. If at that moment its altitude is increasing, it is rising, but if its altitude is decreasing, it is setting. However, all objects on the celestial sphere are subject to diurnal motion, which always appears to be westward.

A northern observer can determine whether altitude is increasing or decreasing by instead considering the azimuth of the celestial object:

If the azimuth is between 0° and 180° (north–east–south), the object is rising.
If the azimuth is between 180° and 360° (south–west–north), the object is setting.
There are the following special cases:

All directions are south when viewed from the North Pole, and all directions are north when viewed from the South Pole, so the azimuth is undefined in both locations. When viewed from either pole, a star (or any object with fixed equatorial coordinates) has constant altitude and thus never rises or sets. The Sun, Moon, and planets can rise or set over the span of a year when viewed from the poles because their declinations are constantly changing.
When viewed from the Equator, objects on the celestial poles stay at fixed points on the horizon.
Note that the above considerations are strictly speaking true for the geometric horizon only. That is, the horizon as it would appear for an observer at sea level on a perfectly smooth Earth without an atmosphere. In practice, the apparent horizon has a slight negative altitude due to the curvature of Earth, the value of which gets more negative as the observer ascends higher above sea level. In addition, atmospheric refraction causes celestial objects very close to the horizon to appear about half a degree higher than they would if there were no atmosphere.

 

Cơ sở toán học của hà đồ và lạc thư

Khi tìm hiểu sự khác nhau về số học giữa hà đồ và lạc thư, tôi nhận ra rằng chúng có liên hệ toán học với nhau tức cùng 1 gốc gác, nhưng do lạc thư có giới hạn bởi 9 con số nên phải dùng 1 cách tính toán khác để tính; trong khi hà đồ có giới hạn là 10 con số nên lại phải dùng cách tính khác.
Cái khác ở đây, nó chính là modulus.
Hiểu rằng 1 tập hợp các số liên tục trong chuỗi số thập phân khi modulus tức chia hết cho 1 số nào đó thì sẽ ra 1 tập hợp các số khác và tập hợp số này được đại diện bởi 1 là hàm chuỗi số F(x) tạo ra nó và 2 là modulus của nó.
Và:
1. Hà đồ (có 10 số) thì mod 9
2. Lạc thư (có 9 số) thì lại mod 10
Còn F(x) là 1 hình ảnh tôi post trên face của tôi lâu lắm rồi ko ai để ý. Từ Fx này với cách mod sẽ ra được đồ hình của lạc thư và hà đồ.
2 câu trên là phát hiện sau ko biết bao nhiêu năm tháng chỉ có ngồi nghĩ của tôi để ra mỗi 2 câu này, nhưng nó lại chứng minh cho sự phân bố các chuỗi số 1 cách chắc chắn, logic ko thể sai của hà đồ và lạc thư, tôi đã định giấu nó đến cuối đời cũng không nói, nhưng cuối cùng thì về mặt học thuật, có lẽ tôi nên nói bởi hà đồ và lạc thư là gốc gác căn bản nhất của mọi kiến thức về âm dương ngũ hành ứng dụng cho mọi lĩnh vực từ đông y đến khí, đến phong thủy- là những môn tôi coi là những công cụ để con người sử dụng cho hành trình giác ngộ của mỗi người.
Khi mod 9 thì sao và khi mod 10 thì sao, khi mod 9; các số 123456789 sẽ chạy chéo nhau; hay chính xác tạo ra hình số 8; về hình học thì nó gọi là hình torus(hình xuyến).
Còn khi mod 10 thì sao, nó tạo vòng xoáy spiral; 2 hình xuyến và xoáy này đều là cực kỳ quan trọng và có mặt phổ biến trong tự nhiên; truyền thuyết trung hoa vẫn là truyền thuyết; nhưng ẩn ý của nó:
1. hà đồ trên lưng ngựa là 1 động vật có chiều cao hơn so với bề ngang mô tả hình torus tức mặt cắt thẳng đứng tức mối quan hệ của thiên địa, miêu tả lực của trên dưới.
2. Lạc thư: các cụ ví von là con rùa, nhưng con rùa thì bề ngang lớn hơn chiều cao, nó tượng trưng cho việc miêu tả 4 phương 8 hướng 360 độ của không gian mặt phẳng nằm ngang.
Hãy tưởng tượng 1 cái chun có hình tròn, khi ta xoắn 1 đầu vào thì ra số 8; đầu ta xoắn thì bị đảo, đầu không xoắn thì giữ nguyên; thì đầu không xoắn là cặp số 16 và 38; trong khi đầu xoắn sẽ là 27 và 49.
Cho nên: “thủy mộc thì giữ nguyên, mà kim hỏa thì đảo chỗ”
cái kim hỏa của hà đồ miêu tả cho cái chun bị xoắn sẽ khác cái kim hỏa cho cái chun bình thường của lạc thư. Kể cả lạc thư từ ma phương 3×3 hay các ma phương bậc lẻ cấp cao hơn cũng thế thôi. ở hà đồ 27 thì đối nghịch với 16 còn ở lạc thư 49 mới là cái đối nghịch với 16.
Để ý về ma phương 3×3 lạc thư, tổng số hàng dọc, ngang và chéo bằng 15 là điều ai cũng biết; nhưng nó còn luật lệ của hàng chéo nữa; dân gian gọi là trục thiên môn địa hộ và trục còn lại là trục quỷ môn; 2 trục này áp dụng cho toàn bộ các ma phương cấp cao hơn lạc thư. 1 trong những quy luật đó là quy luật tam giác vuông của trục chéo thiên môn địa hộ. Nhìn trong lạc thư có số 3,4,5. ta thấy: 3 ^2+ 4^2 = 5^2 đó là luật của thiên môn địa hộ, Với trục còn lại là trục quỷ môn, nó là trục mà khi chỉ sử dụng các con số trong hệ thập phân nó sẽ ra số 2,5,8 nhưng khi chúng ta khai triển theo tịnh tiến cơ số 1 các số tự nhiên trong các ma phương >3 như 9×9; sau đó mod 10 ứng theo câu “lạc thư dùng mod 10” thì ra toàn ra số 5 cả, 1 loạt chữ số chỉ có số 5. Ứng dụng của 2 đường chéo này là nó fix chặt chẽ tất cả các con số theo 1 luật về số học không thể sai khác được, đường lường thiên xích chỉ là cái chúng ta nhìn thấy về đường đi của các con số, nó không phải số học, nó là hình học. Đường để tạo ra số học là phải chứng minh được và nó là 2 đường chéo. Ví dụ về quy luật tam giác vuông này ở ma phương 9×9, 40^2 + 9^2= 41^2.

Vậy, khi chứng minh được đồ hình lạc thư và hà đồ, thì một loạt các dụng pháp sau đó sẽ nở ra từ 2 hình trên, đầu tiên là tạo ra cơ sở số học của 24 sơn trong vòng tròn 360 độ chia ra 24 vùng có kích thước bằng nhau. Nhờ hà đồ ta tìm ra được luật của thiên nguyên long 147, nhân nguyên long 369, địa nguyên long 258.
Nhờ lạc thư ta tìm ra được tính âm dương của 24 sơn giống trong các môn huyền không hay dùng.
Trong 24 sơn này, có 2 luật để chúng nhóm thành 2 bộ khác nhau; sơn nhâm phối với sơn tí, và 1 loạt sau đó khi dùng thiên can phối địa chi thì tạo ra song sơn ngũ hành trong đó các sơn địa chi là chính, các sơn đi cạnh nó phà phụ,
cũng gọi là giang tây địa quái trong tam ban quái; luật số học ra toàn số 5 và 10 khi lấy số mã hóa của mỗi sơn trên cộng lại với nhau.
Luật thứ 2 là dùng sơn tí phối với quý tức địa chi phối với thiên can, thì ra luật của giang đông thiên quái.
Lại trong 24 sơn, có 12 sơn gọi theo 12 con giáp bởi nó có luật tam hợp và các luật khác của 12 con giáp, nếu dùng bằng số ví dụ như thân tí thìn; hợi mão mùi, dần ngọ tuất, tị dậu sửu tạo ra tứ đại cục, và từ đó là vòng trường sinh ra đời.
Luật số học của 24 sơn, ngoài pháp của người trung hoa, còn là pháp của người thuộc nền văn minh lưỡng hà và ấn độ, cả người do thái lẫn người châu âu; nó thể hiện trong việc mà tôi hay làm xưa nay là lập trận cân bằng địa mạch. Toàn dùng số 6, hay 12, hoặc là 9; bởi nó có luật như vậy, khi lập như vậy nó phối cả khí của mạch đất với lý khí toán học, nó ra lực mạnh hơn với vật liệu ít hơn, quan niệm của tôi là vậy; vì sao người cổ đại châu âu khi một số trận đồ của họ không đặt viên nào vào giữa; hay gọi là vô tâm trận, bởi có cơn bão nào mà ở giữa nó có gió đâu, bão xoáy ở 4 phương trừ tâm của nó; đôi khi khí của mạch đất lại cũng như vậy, nó tuân theo luật của lạc thư, sự cân bằng được hay không ăn nhau ở cái điểm xoáy giữa đó.
Tất cả những điều viết bên dưới về tam ban, thiên quái địa quái, giang đông giang tây giang nam bắc, âm dương và tính thiên địa nhân nguyên long của 24 sơn, song sơn ngũ hành, tứ đại cục đều sẽ sai hết nếu như hà đồ và lạc thư bị sai, quan điểm học thuật của tôi là như vậy. Hà đồ và lạc thư là 2 góc chiếu của 1 đối tượng, vì là 2 góc chiếu khác nhau nên chúng phải có sự khác nhau, nếu không đã bị hòa làm 1 rồi.

1.Hà đồ

Không có mô tả ảnh.

2. Lạc thư

Không có mô tả ảnh.

3. Ma phương 9×9, sự mở rộng của lạc thư dựa trên cùng 1 thuật toán (đường lường thiên xích)Không có mô tả ảnh.

Mối tương quan giữa “thân tứ đại”, hệ thống luân xa trong y học cổ đại Ấn Độ ayurveda, chiêm tinh vệ đà và phong thủy huyền không

Hệ thống y học của Ấn Độ coi luân xa 1 có hành “Earth”= đất, luân xa 2 có hành “Water”= nước, luân xa 3 Solar plexus có hành “Fire”= hỏa, luân xa 4 có hành “Air”= gió; chính là tứ đại đất nước gió lửa trong quan điểm nhà phật. Các luân xa ở cao hơn như 5,6,7 là hành “ether” tôi tạm dịch ra là không gian, hoặc “không”. Hệ thống y học ayurveda này khi kết hợp với chiêm tinh vệ đà tức kết hợp với 12 cung hoàng đạo thì họ dùng biểu đồ sinh của 1 bệnh nhân, xem tại các nhà 1,6,8 và hệ thống đại vận vimshottari dasha, để tính trước về vận số của bệnh nhân để tham khảo thêm cho quá trình chữa bệnh. Khi tìm hiểu về vấn đề này, tôi có tình cờ nhìn được cái hình 1 để giới thiệu cho mọi người, một hình ảnh khá là đẹp và trực quan về sự phân bố của 5 hành vào cơ thể với hành đất ở dưới cùng, tiếp theo là nước, sau nữa là hỏa rồi đến khí và đỉnh đầu là ether.
Cái hay của nó là, khi tôi kết hợp vòng hoàng đạo với tổ hợp 12 cung vào vòng 24 sơn của phong thủy phương đông, thì nó lại lộ ra những quy luật cũng lại là toán học như những bài gần đây hay đăng(24 sơn đã được mã hóa thành các con số cho dễ tính toán). Nó là quy luật chia ra lưỡng phiến 2 cặp 1-6, 4-9 và 2-7,3-8. Quy luật này là tối quan trọng trong trường phái liên thành của phong thủy phương đông, nhưng lại ứng trong đồ hình cơ thể của ảnh 1.
Quy luật 2: 4 cặp tam hợp của 12 địa chi là: Thân tý thìn, tị dậu sửu,dần ngọ tuất và hợi mão mùi, khi chiếu vào 12 cung hoàng đạo từ bạch dương đến song ngư cũng tạo ra theo thứ tự tam hợp hành khí, tam hợp hành đất, tam hợp hành lửa và tam hợp hành nước. Ví dụ 1 hành như hành lửa gồm cung sư tử leo, nhân mã saghitarius, bạch dương aries đều có số thuộc về cặp 4-9.
Chúng ta Lấy tổng các số của tam hợp hành khí tức là 1-6 cộng với tổng các số của tam hợp hành lửa là 4-9 tức ra hợp thập 5-10 tạo thành 1 phiến.(Phần nửa trên cơ thể trừ đầu)
Chúng ta lấy tổng các số của tam hợp hành đất là 2-7 cộng với tam hợp hành nước là 3-8 tức tạo ra hợp thập 5-10 tạo thành phiến thứ hai.(Phần nửa dưới cơ thể)
2 phiến âm dương này, tức gồm 4 tổ hợp số 1-6,3-7,3-8,4-9 tạo ra hệ thống cân bằng âm dương trong nội thể, còn số 5-10 để tạo thành sự thống nhất hệ thống số học của hà đồ lạc thư, có thể coi là sự tổng hợp của 4 hành trên để tạo ra hành thống nhất ứng với các luân xa cấp cao hơn 4 là 5,6,7. Lúc này mới chợt nhận ra, có rất nhiều nền tảng lý thuyết tưởng như chẳng liên quan đến nhau nhiều, nhưng lại cùng 1 gốc, và có vẻ cái móc xích để nối chúng lại với nhau lại là “”TOÁN HỌC””.

 

Trong hình ảnh có thể có: 1 ngườiTrong hình ảnh có thể có: 1 người

Nền tảng toán học của nhị thập bát tú.

Nhị thập bát tú được ứng dụng nhiều trong việc chọn ngày trong dân gian, tuy nhiên nhị thập bát tú của trung hoa có khác so với nơi sinh ra hệ thống lý thuyết của nhị thập bát tú (nashaktras)là từ nền văn minh Ấn Độ. Tại đây, nhị thập bát tú = 27 sao + thêm 1 sao ảo (sao abhijit). 27 sao này được xếp khít vào vòng zodiac 12 cung hoàng đạo với mỗi cung hoàng đạo = 2,5 sao. Trong mỗi 1 sao trong 27 sao lại chia ra làm 4 phần gọi là pada. Có tổng cộng 27×4=108 pada. con số 108 chúng ta có thể thấy quen thuộc trong các nền tôn giáo phương đông từ ấn độ cho đến trung hoa, trong cả phật giáo hindu giáo và đạo giáo, ý nghĩa của nó mình sẽ không giải thích ở đây, mình chỉ giới thiệu ra chứ cũng không giải thích các quy luật toán học của 108 pada trong các hình bên dưới. Chỉ cần biết rằng, tại hình 6 cũng là hình mình post từ cách đây vài tháng 108 padas này nó tương ứng với sự vận hành của số 0 từ lúc xuất hiện, chạy hết chu kỳ của đường lường thiên xích, biến mất đi và trùng sinh lại là đúng 108 số đếm. Còn tại hình 5, pada 1 tức cột đỏ số 1 khi cộng các số lại chúng ta ra quy luật 3,6,9; pada 2 thì tạo ra số 1; pada 3 thì ra quy luật 9,6,3; và pada 4 thì ra số 8. Các quy luật này của các pada là giống nhau tại mọi sao trong 27 sao và 12 cung hoàng đạo. Ví dụ: cung bạch dương aries có chòm nhị thập bát tú là Ashwini có pada 1 tức phân cung đầu tiên của Ashwini sẽ có số toán học là 3. Tương tự như vậy, các số 3,6,9 sẽ bao bọc toàn bộ 27 nashaktra. Vì sao điều này là quan trọng, ngoài việc các pada được sử dụng để xác định biểu đồ hậu vận navamsa D9 của 1 lá số, nó còn thể hiện cho luật toán học mà người xưa đã tìm ra để miêu tả về bầu trời- đến cấp độ nhỏ nhất là 108 đơn vị. Từ cơ sơ toán học của những đơn vị nhỏ nhất, ta nhanh chóng nhận ra nó trùng với cơ sở toán học của những đơn vị lớn nhất ví dụ như cơ sở của việc chia 4 hành đất nước gió lửa phân ra cho 12 cung hoàng đạo vì sao nhà 1 lại là aries lửa thì bên cạnh nó taurus bắt buộc phải là đất; từ đó mà ứng với những môn có tính chuyên ngạch hơn, nhỏ hơn như phong thủy chẳng hạn: 4 hành này hoàn toàn ăn khớp với tứ đại thủy cục của tam hợp, ứng với phân chia lưỡng phiến của các môn phong thủy huyền không, và còn rất nhiều những bí ẩn của phong thủy mà nhiều người thuộc nhiều dòng còn tranh cãi lẫn nhau hoàn toàn có thể chứng minh bằng toán học được.

Không có mô tả ảnh.

Tìm các số chia hết cho 12Không có mô tả ảnh.

Trong tất cả các nghiệm, có nghiệm 216 được khoanh vùng màu đỏ là số chia hết cho 108. (108×2=206)

Tại đây,ta nhận thấy có thể so le khoanh vùng các cột kết quả của nghiệm đếm được đúng 108 số. Tổng các số trên, ví dụ 21 là 3; 15 là 6; 36 là 9. 108 con số luân phiên 369, nếu tìm hiểu về nhiều môn phái phong thủy lý khí, chúng ta sẽ không lạ gì về tổ hợp con số 369 này. Vì tổ hợp 147,258,369 là những tổ hợp thường thấy trong phong thủy huyền không và tam hợp.

Trong hình ảnh có thể có: văn bản       Không có mô tả ảnh.

Không có mô tả ảnh.