Lạc thư và vật lý lượng tử- hằng số sommerfeld

TRONG ĐOẠN PHÂN TÍCH DƯỚI, LẠC THƯ VỚI HẰNG SỐ FINE STRUCTURE CONSTANT LIÊN QUAN CHẶT CHẼ VỚI NHAU QUA CON SỐ 137.

Nếu như ở vật lý vĩ mô, ta thấy sự xuất hiện của cặp số 16; thì tại vật lý lượng tử hay vi mô, ta thấy sự xuất hiện nhiều của cặp số 27.

với alpha=0.0072973525693 ≃ 1/137.035999084              

0.0072973525693 ≃ 1/137.035999084 với số thập phân = 03+50+84=137                                                                          

137 mod 10 = 7; 137 mod9= 2        (27)  729 tương ứng quái Tốn. Trong khi nếu đọc lại bài về quả dứa, tôi đã nói về số 831 tương ứng quái Càn khi quan sát các sự vật hiện tượng có kích thước mắt thường nhìn được tức vật lý vĩ mô. Vì 2 số trên nằm ở vị trí đối nghịch nhau trong 1 đường tròn, do đó thuyết lượng tử với thuyết tương đối vẫn rất khó để đi chung 1 lối, và lý thuyết hợp nhất được 2 thuyết trên vẫn chưa được tìm ra.  

The fine-structure constant α is of dimension 1 (i.e., it is simply a number) and very nearly equal to 1/137. It is the “coupling constant” or measure of the strength of the electromagnetic force that governs how electrically charged elementary particles (e.g., electron, muon) and light (photons) interact. Currently, the value of α having the smallest uncertainty comes from the comparison of the theoretical expression ae(theor) and experimental value ae(expt) of the anomalous magnetic moment of the electron ae. Starting in the 1980’s, a new and wholly different measurement approach using the quantum Hall effect (QHE) has caused excitement because the value of α obtained from it independently corroborates the value of α from the electron magnetic moment anomaly. The QHE value of α does not have as small an uncertainty as the electron magnetic moment value, but it does provide a significant independent confirmation of that value.

The quantity α was introduced into physics by A. Sommerfeld in 1916 and in the past has often been referred to as the Sommerfeld fine-structure constant. In order to explain the observed splitting or fine structure of the energy levels of the hydrogen atom, Sommerfeld extended the Bohr theory to include elliptical orbits and the relativistic dependence of mass on velocity. The quantity α, which is equal to the ratio v1/c where v1 is the velocity of the electron in the first circular Bohr orbit and c is the speed of light in vacuum, appeared naturally in Sommerfeld’s analysis and determined the size of the splitting or fine-structure of the hydrogenic spectral lines. Sommerfeld’s theory had some early success in explaining experimental observations but could not accommodate the discovery of electron spin. Although the Dirac relativistic theory of the electron introduced in 1928 solves the main aspects of the problem of the hydrogen fine-structure, α still determines its size as in the Sommerfeld theory. Consequently, the name “fine-structure” constant for the group of constants below has remained:

$$\alpha = \frac{e^2/\hbar c}{4 \pi \epsilon_0}= \frac{\mu_0 c e^2}{2 h}$$,

where e is the elementary charge, h bar = h/2π where h is the Planck constant, ε0 = 1/µ0c2 is the electric constant (permitivity of vacuum) and µ0 is the magnetic constant (permeability of vacuum). In the International System of Units (SI), c, ε0, and µ0 are exactly known constants.Our view of the fine-structure constant has changed markedly since Sommerfeld introduced it over 80 years ago. We now consider α the coupling constant for the electromagnetic force and similar to those for the other three known fundamental forces or interactions of nature: the gravitational force, the weak nuclear force, and the strong nuclear force. Further, since α is proportional to e2, it is viewed as the square of an effective charge “screened by vacuum polarization and seen from an infinite distance.”

According to quantum electrodynamics (QED), the relativistic quantum field theory of the interaction of charged particles and photons, an electron can emit virtual photons that can then emit virtual electron-positron pairs (e+, e). The virtual positrons are attracted to the original or “bare” electron while the virtual electrons are repelled from it. The bare electron is therefore screened due to this polarization. The usual fine-structure constant α is defined as the square of the completely screened charge, that is, the value observed at infinite distance or in the limit of zero momentum transfer. At shorter distances corresponding to higher energy processes or probes (large momentum transfers), the screen is partially penetrated and the strength of the electromagnetic interaction increases since the effective charge increases. Thus α depends upon the energy at which it is measured, increasing with increasing energy, and is considered an effective or running coupling constant. Indeed, due to e+ e and other vacuum polarization processes, at an energy corresponding to the mass of the W boson (approximately 81 GeV, equivalent to a distance of approximately 2 x 10-17 m), α(mW) is approximately 1/128 compared with its zero-energy value of approximately 1/137. Thus the famous number 1/137 is not unique or especially fundamental.

As indicated above, the value of alpha from the quantum Hall effect (QHE) has corroborated the value from the electron magnetic moment anomaly ae. The QHE is characteristic of a completely quantized two-dimensional electron gas. Such a gas may be realized in a high-mobility semiconductor device such as a silicon metal-oxide-semiconductor field-effect transistor (MOSFET) or GaAsAlxGa1-As heterojunction of standard Hall bar geometry in an applied magnetic flux density of the order of 10 T and cooled to about 1 K.

For a fixed current (typically 10 µA to 50 µA) through the device, there are regions in the curve of Hall voltage Uversus gate voltage for a MOSFET, or of Uvs for a heterojunction, where Uremains constant as either the gate voltage or is varied. These regions of constant Uare termed quantum Hall plateaus. In the limit of zero dissipation (zero voltage drop) in the direction of current flow, the Hall voltage-to-current quotient UH(i)/I or Hall resistance RH(i) of the ith plateau, where is an integer (we consider only the integral QHE), is quantized and given by RH(i) = UH(i)/I = RK/i where Ris the von Klitzing constant (after the discoverer of the QHE).

The theory of the QHE predicts, and the experimentally observed universality of RH(i) = UH(i)/I = RK/is consistent with the prediction, that Rh/e2µ0c/2α. Since in the SI µ0 = 4π x 10-7 N/A2 exactly, and = 299 792 458 m/s exactly as a result of the 1983 redefinition of the meter in terms of the speed of light, a measurement of Rin SI units (i.e., ohms) with a given uncertainty will yield a value of the fine structure constant α with the same uncertainty.

In practice, Ris measured in terms of a laboratory standard of resistance. Thus, the resistance of the standard must be determined in the SI unit ohm in a separate experiment using an apparatus known as a calculable cross capacitor in which the unknown resistance of a reference resistor is compared with the known impedance of the capacitor. The change in capacitance of such a capacitor, and hence its change in impedance, can be readily calculated since the change depends only on the position of a movable screen electrode whose displacement can be measured with a laser interferometer. In the NIST version of the experiment, the known 0.5 pF change in capacitance of the NIST calculable cross capacitor is used to measure the capacitances of 10 pF reference capacitors. These and a 10:1 bridge are then used in two stages to measure the capacitance of two 1000 pF capacitors, which are in turn used as two arms of a special frequency dependent bridge to measure the impedances of two 100 kiloohm resistors. The latter are then compared using a 100:1 bridge with a 1000 ohm transportable resistor, which in turn is compared using dc techniques with the resistance standard in terms of which Rhas been measured. The ac-dc resistance difference of the 1000 ohm resistor is determined by means of a special 1000 ohm coaxial resistor of negligible ac-dc resistance difference. All ac measurements are carried out at a frequency of approximately 1592 Hz (2πf = 104 rad/s).

The QHE has already yielded a value of α with a relative standard uncertainty of 24 x 10-9. When used to compare ae(theor) with ae(expt), it gives a fractional difference of (29 ± 24) x 10-9. Since the 29 x 10-9 fractional difference is only 1.2 times the 24 x 10-9 relative standard uncertainty of the difference, it is within statistically acceptable limits.

Lạc thư và chất diệp lục

Tất cả lý thuyết ở bài dưới có điểm trùng với lạc thư đó là cả 2 có liên quan đến con số 137. Công thức của diệp lục a: C55H72O5N4Mg có tổng số 55+72+5+4+1 = 137. 

Diệp lục a

Cấu trúc diệp lục a
Danh pháp IUPAC Diệp lục a
Tên hệ thống Magnesium [methyl (3S,4S,21R) -14-ethyl-4,8,13,18-tetramethyl -20-oxo-3- (3-oxo-3-{[(2E,7R,11R) -3,7,11,15-tetramethyl-2-hexadecen-1-yl] oxy}propyl)-9-vinyl-21-phorbinecarboxylatato(2−) –κ2N,N′]
Tên khác α-Chlorophyll
Nhận dạng
Số CAS 479-61-8
PubChem 6433192
Số RTECS FW6420000
Ảnh Jmol-3D ảnh
SMILES
InChI
Thuộc tính
Bề ngoài Xanh lá cây
Mùi Không mùi
Khối lượng riêng 1,079 g/cm³[1]
Điểm nóng chảy ~ 152,3 °C (425,4 K; 306,1 °F)[2]
phân hủy[1]
Điểm sôi
Độ hòa tan trong nước Không tan
Độ hòa tan Tan nhiều trong ethanolete
Tan trong ligroin,[2] axetonbenzenchloroform[1]
Các nguy hiểm
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa).

Diệp lục a là một dạng diệp lục cụ thể được sử dụng trong quá trình quang hợp oxy. Nó hấp thụ hầu hết năng lượng từ bước sóng của ánh sáng màu tím-xanh và đỏ cam.[3] Nó cũng phản chiếu ánh sáng xanh lục-vàng và điều đó góp phần vào màu xanh mà ta quan sát của hầu hết các loại thực vật. Sắc tố quang hợp này rất cần thiết cho quá trình quang hợp ở sinh vật nhân thựcvi khuẩn lam và prochlorophytes vì vai trò của nó là chất cho electron chính trong chuỗi chuyền điện tử.[4] Diệp lục a cũng chuyển năng lượng cộng hưởng trong phức hợp ăng-ten, kết thúc tại trung tâm phản ứng nơi có chất diệp lục đặc trưng P680 và P700.

Phân phối diệp lục a

Diệp lục a rất cần thiết cho hầu hết các sinh vật quang hợp để giải phóng năng lượng hóa học nhưng không phải là sắc tố duy nhất có thể được sử dụng cho quang hợp. Tất cả các sinh vật quang hợp oxy đều sử dụng diệp lục a, nhưng khác nhau về các sắc tố phụ như diệp lục b.[4] Diệp lục z cũng có thể được tìm thấy với số lượng rất nhỏ trong các vi khuẩn lưu huỳnh màu lục, một sinh vật quang dưỡng yếm khí.[5] Những sinh vật này sử dụng bacteriochlorophyll và một số chất diệp lục nhưng không tạo ra oxy.[5] Sự quang hợp anoxygenic là thuật ngữ được áp dụng cho quá trình này, không giống như quang hợp oxy, nơi oxy được tạo ra trong các phản ứng quang hợp của ánh sáng.

Cấu trúc phân tử 

Cấu trúc phân tử của diệp lục a bao gồm một vòng clorin, có bốn nguyên tử nitơ bao quanh một nguyên tử magie trung tâm, và có một số chuỗi bên khác và đuôi hydrocarbon.

Cấu trúc của diệp lục a phân tử cho thấy đuôi hydrocarbon dàiC55H72O5N4Mg

Vòng clorin

Clorin, cấu trúc vòng trung tâm của diệp lục a

Diệp lục a chứa một ion magnesi được bọc trong một cấu trúc vòng lớn được gọi là clorin. Vòng clorin là một hợp chất dị vòng có nguồn gốc từ pyrrole. Bốn nguyên tử nitơ từ vòm clorin và liên kết với nguyên tử magnesi. Magnesi trung tâm duy nhất quyết định cấu trúc một phân tử diệp lục.[6] Vòng porphyrin của bacteriochlorophyll được bão hòa, và thiếu xen kẽ các liên kết đôi và đơn gây ra sự biến đổi trong hấp thụ ánh sáng.[7]

Chuỗi bên

CH3 (đóng khung xanh) là nhóm methyl ở vị trí C-7 của diệp lục a

Các chuỗi bên được gắn vào vòng chlorin của các phân tử chất diệp lục khác nhau. Các chuỗi bên khác nhau mô tả từng loại phân tử chất diệp lục và làm thay đổi phổ hấp thụ ánh sáng.[8] Ví dụ, sự khác biệt duy nhất giữa diệp lục a và diệp lục b là diệp lục b có một aldehyde thay vì một nhóm methyl ở vị trí C-7.[8]

Đuôi Hydrocarbon

Diệp lục a có một đuôi chất kị nước dài, là nơi liên kết các phân tử protein khác kị nước trong màng thylakoid của lục lạp.[4] Sau khi tách ra khỏi vòng porphyrin, đuôi hydrocarbon dài này trở thành tiền chất của hai trạng thái sinh học, pristane và phytane, điều này quan trọng trong nghiên cứu địa hóa học và xác định nguồn dầu mỏ.

Sinh tổng hợp

Diệp lục a trao đổi chất sử dụng một loạt các enzym.[9] Gen mã hóa cho các enzym trên Mg-tetrapyrroles của cả hai bacteriochlorophyll và chlorophyll a.[9] Nó bắt đầu với axit glutamic, được chuyển thành một axit 5-aminolevulinic (ALA). Hai phân tử ALA sau đó được giảm xuống thành porphobilinogen (PBG), và bốn phân tử PBG sau đó được ghép lại, tạo thành protoporphyrin IX.[6] Khi hình thành protoporphyrin, Mg chelatase đóng vai trò như một chất xúc tác cho việc đưa Mg vào cấu trúc diệp lục a.[9] Con đường này sau đó sử dụng hoặc là một quá trình phụ thuộc ánh sáng, thúc đẩy bởi enzyme protochlorophyllide oxidoreductase. Protochlorophyllide là tiền thân của quá trình sản xuất diệp lục a phân tử, hoặc một quá trình độc lập với ánh sáng được thúc đẩy bởi các enzym khác, tạo thành một vòng tuần hoàn và giảm một vòng khác trong cấu trúc.[6] Gắn đuôi phytol hoàn thành quá trình sinh tổng hợp chất diệp lục.[10]

Phản ứng quang hợp

Hấp thụ ánh sáng

Quang phổ ánh sáng

Phổ hấp thụ của diệp lục a và chất diệp lục b. Việc sử dụng cả hai cùng nhau tăng cường kích thước của sự hấp thụ ánh sáng để tạo ra năng lượng.

Diệp lục a hấp thụ ánh sáng trong các bước sóng tímxanh lam và đỏ trong khi chủ yếu phản chiếu màu xanh lá cây. Phản xạ này cho chất diệp lục xuất hiện màu xanh lá cây của nó. Các chất màu quang hợp phụ kiện mở rộng phổ hấp thụ ánh sáng, tăng phạm vi bước sóng có thể được sử dụng trong quang hợp.[4] Việc bổ sung diệp lục b bên cạnh diệp lục a kéo dài phổ hấp thụ. Trong điều kiện ánh sáng yếu, thực vật tạo ra tỷ lệ lớn hơn là diệp lục b so với diệp lục a phân tử, làm tăng năng suất quang hợp.

Lạc thư, hệ thống lý thuyết nạp giáp và quả dứa

Trước đây, khi tôi nghĩ đến những manh mối đầu tiên để chứng minh hệ thống nạp giáp:

thì tôi nghĩ đến thiên văn, tức nhìn bầu trời và theo dõi quy luật vận động của 1 số hành tinh cụ thể, xâu chuỗi chúng lại để tìm ra lý thuyết nạp giáp. Lúc đó tôi đã thắc mắc, quái lạ vì sao chỉ lộ ra quy luật thiên văn của 4 quái càn khôn cấn tốn, tức các quái mang số chẵn 2,4,6,8 trong lạc thư thì lộ ra thật. Còn 4 quái mang số lẻ còn lại 1,3,7,9 gồm khảm ly chấn đoài thì không lộ ra dấu vết gì, mà chỉ được suy ngược ra sau khi đã giải xong các quái số chẵn trên.

Tuy nhiên, năm Mão 2023 là 1 năm đặc biệt lạ, khi tôi lại nhìn thấy cái quy luật lộ ra của 4 quái càn khôn cấn tốn trong nghiên cứu thực vật, đôi khi là đếm số lá và quy luật mọc lá tiếp theo của 1 cành cây, đôi khi là số mắt trên 1 quả, đôi khi là số cánh hoa trong 1 bông.

Và có lẽ quả dứa và quả thông là loại quả mà ứng nhất, dễ nhìn được ra luật của lạc thư nhất thể hiện trên hình sau:

Ưu điểm của nghiên cứu thực vật là gì: là bạn có thể mua 1 quả trái cây một cách dễ dàng với giá cả rất rẻ, và có thể nhìn trực quan bao lâu cũng được, cũng như không cần phải có nền tảng kiến thức gì như thiên văn, hay cách quan sát bầu trời, điều khá là khó với những bạn không kiên nhẫn trên con đường nghiên cứu huyền thuật.

Thực vật rất trực quan, ví dụ như quả dứa ở trên, bạn sẽ nhận thấy rằng chúng tạo ra các liên kết theo vòng xoáy, 1 chiều có 8 vòng thì đếm chiều ngược lại sẽ là 13 vòng, mà nếu nhin dọc thì có 21 đường thẳng. Cùng 1 quả dứa, cùng 1 sự vật, nhìn theo chiều khác nhau sẽ ra số khác nhau. Nhưng cả 3 số đó không tách biệt nhau, chúng có độ quan trọng như nhau và cấu nên quái: Càn 831 nếu nhìn theo hệ thống của lục thập hoa giáp. Và đại khí vayu nếu nhìn theo vệ đà cổ đại. Và thành sơn Càn 31 nếu nhìn theo hệ thống 24 sơn trong phong thủy.

Quy luật thiên văn trong hệ thống nạp giáp: Càn 6 nếu xét theo hệ thống lục thập hoa giáp, tiếp tục sẽ phải mất 20 năm và 26 năm sau thì mới gặp lại hiện tượng thiên văn như vậy; lúc đó sẽ thấy càn sẽ liên kết với giáp và cả ất; tiếp tục trộn 2 quái trên theo tiên thiên bát quái: càn và khôn để lấy giáp ất trộn với nhâm bính, lấy cha dương thì con dương đi cùng, mẹ âm thì con âm đi cùng do đó càn lúc này nạp giáp nhâm và khôn nạp ất quý.

Từ thiên văn, nạp giáp đến thực vật: Vấn đề này tương tự như quả dứa, nó là loài đã chọn quái càn trong 4 quái càn khôn cấn tốn để sinh tồn và phát triển, nó đã chọn hệ số 831 giống như rất nhiều các loài khác. Hệ thống thực vật dù hàng triệu loài thì rồi cũng sẽ thu lại trong các bộ hệ số mà ứng với tứ đại đất nước gió lửa và cũng ứng với 4 quái càn khôn cấn tốn.

1 số các ví dụ khác: hoa hướng dương chọn kết cấu dựa trên tứ chính tí ngọ mão dậu, kết cấu của số nhánh hoa gồm 21,34,55; nhưng tứ chính thì lại mod9 để thành 3,7,10 để ứng với quái đoài.

1 case địa mạch Phan Thiết

Thông tin địa mạch, địa tầng chủ đạo gồm tuổi jura sớm giữa và phức hợp đá xâm nhập cho vùng núi và các thành tạo trầm tích do sông có tuổi N2-Q ở đồng bằng.

Cơ chế thủy lực, các động lực do hoạt động do gió tạo ra tướng đê cát ven biển.

đã được thể hiện trong hình ảnh bên dưới.

Kết hợp chiêm tinh, địa mạch và thủy pháp thanh nang

1 case điển hình khi kết hợp các kiến thức phong thủy- địa mạch, thủy pháp thanh nang và kiến thức chiêm tinh:

1.Địa mạch có mạch tọa tý hướng ngọ vào nhà

2.thủy pháp thanh nang ứng khố thủy tại hướng ngọ, linh thủy tại tỵ, canh

3.chiêm tinh gồm phân tích lá số chủ nhà và prashna jyotish

Nhật ký phong thủy địa mạch (P3)- Kiến trúc cổ đại và công nghệ tàng hình

Tôi được tiếp cận với những kiến thức về kiến trúc cổ đại qua 1 bài viết của 1 kỹ sư quân sự radar người Anh, ông đã nói về các kỹ thuật xây dựng từ vài nghìn năm trước có những tính chất rất giống với cách chúng ta phát triển công nghệ tàng hình cho máy bay quân sự ngày nay. Về mặt nguyên lý, người xưa đã sử dụng các loại đá trộn lẫn vào nhau để xây những tòa tháp cao và đặt chúng tại những vị trí đất có năng lượng cực cao (tây gọi là vortex, các điểm xoáy năng lượng, ta thì gọi là huyệt), các tòa tháp này với chiều cao đã được tính toán trước có chức năng phát tán nguồn năng lượng địa mạch lan ra xa hơn thông thường (sau vài năm thì tôi biết được rằng chiều cao này tương thích với dải tần radio vũ trụ phát ra từ chòm cung thủ Sagittarius A)- mà việc biết được tần số với độ dài bước sóng lại liên quan đến phương trình lamda= v/f sau đó vài nghìn năm lịch sử, về vật liệu để xây dựng lại là sự phối trộn giữa các loại đá có đặc tính thuận từ với các loại đá có tính nghịch từ. Các loại đá có thể cắt thành những khối lớn, 1 số loại lại được đập nhuyễn ra trộn với 1 số chất gắn kết để tạo thành xi măng- tức về nguyên lý vẫn phải tuân theo tính chất từ trường của loại đá.
Khi tiếp cận đến giai đoạn này, tôi nhận thấy đây là 1 lối phong thủy hệ thiên cực kỳ cổ đại và nó đã có hệ thống từ lâu nhưng vẫn trong vòng bí mật (dòng địa chỉ quan tâm đến địa mạch, dòng thiên theo lối này lại là cách xây dựng các công trình sao cho thu được tốt nhất năng lượng từ cả hệ địa và hệ thiên), 1 số câu hỏi từ đó khiến tôi phải suy nghĩ và tìm lời giả đáp:
1. Bản chất các bộ phận cấu thành tòa tháp- tương ứng với tất cả các dòng kiến trúc cổ đại đến từ Bắc Âu đến Tây Tạng, Trung Đông đến Đông Á v.v. đều xây dựng các tòa tháp tại các vị trí đối với họ là linh thiêng, thì các bộ phận riêng biệt của tòa tháp sẽ phản ứng thế nào với các dạng sóng điện từ trường đến từ các chòm sao (thiên) và từ địa mạch trái đất (địa). Ví dụ tháp bắc âu liên quan đến chòm sagittarius A?
2. Làm thế nào để chế tạo ra vật liệu có các đặc trưng tương tác với sóng điện từ như sau: Phản xạ sóng điện từ, Hấp thụ sóng điện từ, tán xạ sóng điện từ, tập trung sóng điện từ trong vật liệu?
3. Cách thiết kế kiến trúc như thế nào để tạo ra sự phản xạ hay hấp thụ sóng hiệu quả nhất?
4. Các đơn vị cổ đại từ các nền văn minh vì sao lấy kích thước của hoàng gia cổ đại ai cập làm đơn vị chuẩn?
Phải mất vài năm loay hoay đi tìm lời giải đáp, tôi gần như không tìm ra lời giải đáp, cho đến khi vô tình đọc về công nghệ tàng hình máy bay trong khoa học quân sự thì có thể cho tôi vài nguyên lý cốt lõi. Về mặt nguyên lý, máy bay muốn tàng hình thì các chùm sóng radar phát ra từ hệ thống phòng không khi tương tác vào máy bay phải bị hấp thụ càng nhiều càng tốt, bởi nếu phản xạ thì hệ thống phòng không sẽ phát hiện ra được máy bay đó, do đó vật liệu được phủ bên ngoài máy bay sẽ là loại vật liệu hấp thụ sóng điện từ chứ không thể là vật liệu phản xạ sóng điện từ được.
Bỏ qua các công nghệ phát radar chủ động với cường độ bằng nhưng ngược pha với hệ thống phòng không để triệt sóng, thiết kế sao cho ít góc phản xạ nhất có thể để giảm độ phản xạ thì công nghệ tàng hình mà tôi có thể tiếp cận được là: vật liệu hấp thụ sóng radar và kiến trúc để hấp thụ sóng radar. Sóng điện từ do có 2 thành phần là phần điện trường và phần từ trường do đó trong loại vật liệu hấp thụ sóng này sẽ gồm 2 loại vật liệu chính, 1 là loại dẫn điện cao 2 là loại có độ thẩm từ tốt; để nâng cao được hiệu suất hấp phụ thì tỉ lệ giữa 2 loại vật liệu này sẽ phải được tính toán- 2 loại vật liệu chính lại được phối trộn với 1 số các vật liệu phụ khác để làm tăng đặc tính hấp thụ sóng gọi chung là chất trộn- được bao bọc trong 1 loại vật liệu khác không dẫn điện gọi là chất mang, thường được làm từ nhựa có đặc tính chịu nhiệt, cơ học cao.
Lớp vật liệu trên máy bay này, hay lớp tường bao bọc các công trình cổ đại có năng lượng cao, tôi đều nhận thấy có 1 tính chất chung: Đó là chuyển năng lượng của sóng điện từ thành nhiệt, với hiệu ứng của thời đại ngày nay thì mạnh hơn nhiều và mang tính nhân tạo- khi phải thiết kế hệ thống quạt làm mát trong máy bay quân sự vì sóng radar từ hệ thống phòng không đối phương tạo ra nguồn phát sóng rất mạnh, các vật liệu hấp thụ sóng vì chuyển hóa quá nhiều sóng điện từ mà sinh ra nhiệt năng lớn. Còn với các công trình cổ đại là thu khí một cách tự nhiên, đến bao nhiêu nhận bấy nhiêu, hay có thể gọi là tạo ra nguồn sinh khí, dương khí có nhiệt tính 1 cách tự nhiên từ việc hiểu sự vận hành của trái đất và vũ trụ- tôi coi đây cũng chính là 1 phần bản chất của phong thủy , khi chúng ta tính toán tiếp sự tương tác của các trường sóng điện từ với đối tượng là nước và không khí. Có lẽ rằng, khi nghiên cứu một ngưỡng sâu nào đó , thì tôi nhận thấy không còn ranh giới giữa khoa học cổ đại và khoa học hiện đại, không còn ranh giới giữa phương đông và phương tây, và khi khoa học quân sự càng phát triển thì lại càng là 1 nguồn tài liệu quý giá để tìm hiểu về khoa học cổ đại chăng!

Môi trường và phong thủy địa mạch (P1)

Sự phá hủy môi trường sống khiến chất lượng cuộc sống của chúng ta ngày càng suy giảm mà đến hiện này thì ngày càng nhiều người nhận ra hậu quả của nó. Tôi nhận thấy môi trường bị ô nhiễm không những ảnh hưởng đến những chỉ số có thể đo đếm như ô nhiễm nước, ô nhiễm đất, hay không khí mà nó còn ảnh hưởng đến những giá trị không thể đo đếm được khác như về phong thủy, về năng lượng của các mạch đất. Tuy nhiên, tại bài mở đầu này, tôi chỉ nói hết sức tóm tắt về cơ chế của các thông số có thể đo đạc được, 1 trong những cơ chế quan trọng đầu tiên phải nhắc đến là thạch tín (asen) bởi nó không màu, không mùi không vị nhưng là chất kịch độc, được lan truyền bởi chất liệu không thể thiếu là môi trường nước và tiếp theo là nó là chất độc bị phân tán mạnh theo sự khai thác nước, khoan giếng của mọi người.
Ô nhiễm arsen bắt đầu nhen nhóm nghiên cứu từ năm 1983 khi mà tại bang Tây Bengal của Ấn Độ người ta đã phát hiện trên 200.000 ca nhiễm độc và trên một triệu người đang nằm trong vùng bị phơi nhiễm. Tại Bangladesh, một quốc gia đứng đầu về số lượng giếng khoan bơm tay của khu vực Châu Á, từ năm 1993 sự nhiễm độc nước giếng do asen càng được lớn và tới nay đã có khoảng 35 đến 77 triệu người có nguy cơ bị nhiễm độc. Tổ chức y tế thế giới mô tả sự kiện này là “một thảm họa môi trường lớn nhất từ trước tới nay”. Với đặc điểm địa chất rất giống với vùng đồng bằng Bangladesh, đồng bằng sông hồng cũng nằm trong khu vực bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm asen do tính chất tự nhiên có nguồn gốc từ đá gốc vùng Himalaya, nơi các trầm tích có chứa asen tự nhiên được vận chuyển xuống các lưu vực sông ở hạ lưu đông dân cư bên dưới.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng 21,5% dân số Việt Nam (tương đương với 17,2 triệu người) đang sử dụng nguồn nước ăn từ nước giếng khoan, đây là nguồn nước dễ bị nhiễm asen.
Có thể tóm tắt rằng Asen có 2 dạng tồn tại chủ yếu là ở vùng núi và vùng đồng bằng.
1. Dạng tồn tại của Asen ở vùng núi
Tại vùng núi, asen nằm trong đá và các mỏ quặng nhiệt dịch mà chủ yếu dưới dạng các khoáng vật như: arsenopyrit (FeAsS), chu sa, thần sa, hùng hoàng v.v. Như ở nước ta, các mỏ quặng nhiệt dịch đặc trưng của vùng Tây Bắc cũng là nguồn phát tán Asen. Theo thời gian, các hoạt động phong hóa diễn ra khiến các đá gốc bị phong hóa thành đất, một phần asen bị rửa lũa và chảy xuống theo dòng nước để đến hạ lưu nhưng vẫn giữ lại phần lớn Asen.
Những nguyên nhân gây tăng ô nhiễm asen:
– xáo trộn các tầng đất do hoạt động xây dựng, khai thác quặng, khoan giếng tại vùng đất có chứa nhiều khoáng vật arsernopyrit khiến cho arsernopyrite bị oxy hóa; asen bị phát tán mạnh vào môi trường.
– Thời tiết trong giai đoạn nắng to sau đó mưa lớn cũng khiến xuất hiện khí có thành phần là hợp chất asen và các dạng khí khác mà dân gian gọi là chướng khí, đặc biệt khi vùng đó có hệ thống đứt gãy dày đặc và gần sát bề mặt đất. Các khu vực dân cư nằm trên các đới khoáng hóa quặng nhiệt dịch có thể bị ảnh hưởng nhiều hơn khi trong giai đoạn thời tiết này.
2. Dạng tồn tại của Asen ở vùng đồng bằng
Tại vùng đồng bằng, hệ thống nước ngầm và đặc tính của loại đất chiếm 1 vai trò quan trọng. Hệ thống nước ngầm gồm tầng chứa nước Holocen (tầng trên) và tầng chứa nước Pleistocen (tầng dưới).
Thành phần thạch học chủ yếu của tầng chứa nước này là cát, cát pha, sét pha với độ sâu phân bố từ khoảng 16 – 25m chiều dày thay đổi từ 0 -15,5m trung bình 14,0m. Mực nước tĩnh thay đổi từ 0,5 – 4m.
Tầng chứa nước Pleistocen (tầng dưới) có thành phần thạch học chủ yếu của tầng này gồm cát, sạn, cuội sỏi với bề dày thay đổi trong phạm vi khá lớn từ 9,97 – 30,8m ở phía bắc đến 35 – 45m, có nơi trên 60m ở phía Nam đồng bằng sông hồng.
Tầng chứa nước Holocen(tầng trên) đo được thường có độ ô nhiễm cao hơn so với tầng chứa nước Pleistocen sạch hơn ở dưới.
Những nguyên nhân gây tăng độ ô nhiễm Asen tại vùng đồng bằng:
– Việc khai thác nước ngầm quá mức khiến mực nước ngầm bị hạ, khiến cho môi trường oxy – môi trường khử vốn tồn tại hàng nghìn năm bị thay đổi quá đột ngột sẽ làm tăng lượng Asen bị phát tán vào nước ngầm.
– Khoan quá nhiều giếng khoan khiến cho lượng nước bị nhiễm asen nặng thấm vào tầng nước sạch Pleistocen bên dưới; sau khi giếng không sử dụng nữa lại không có biện pháp lấp giếng đúng tiêu chuẩn nên nước từ tầng nước bẩn phía trên mãi mãi ngấm xuống dưới. Đôi khi tôi thấy nhiều hộ dân lấp giếng chỉ bằng cách làm đúng cái nắp bê tông đậy lại miệng giếng.
– chỉ trừ 1 số vùng đất đặc biệt như vùng đá ong có hàm lượng sắt cao, nhôm ít thì hiện tượng ô nhiễm lan vào các tầng nước sạch giảm bớt.
– Than bùn giàu vật chất hữu cơ là các vật liệu hấp phụ asen và các kim loại nặng khác, khi khai thác, cày xới lên thì nó phát tán trả lại môi trường.
3. Cơ chế tạo thành và lắng đọng Asen
– Arsenopyrit là khoáng vật sulfur có As và Fe: FeAsS khi phơi lộ ra không khí ẩm, nó nhanh chóng bị oxy hoá tạo thành hợp chất arsenat:
– 4FeAsS + 13O2 + 6H2O  4 FeSO4 + 4H3SO4
– Arsenat trong môi trường tự nhiên dễ dàng chuyển hoá thành H2AsO4-2 và HAsO3- di chuyển trong nước, hấp thụ vào trong đất, trong bùn và thực vật.
4. Cách để giảm ảnh hưởng do Asen gây ra
– Ý thức trong bảo vệ tài nguyên nước cần phải được thay đổi, chúng ta dùng nước cần phải ý thức được những hệ quả của việc dùng lãng phí. Với những công trình khoan giếng phục vụ trong sinh hoạt, chúng ta cần tuân thủ đúng các quy tắc lấp giếng để đảm bảo không để nước tầng trên chảy xuống tầng dưới.
– Ý thức trong vấn đề bảo vệ tài nguyên đất, quặng; khi khai thác tức chúng ta làm xáo trộn môi trường của đất, quặng, từ môi trường khử (nằm sâu trong lòng đất) thành môi trường oxy hóa (lộ ra không khí) do đó chí ít khai thác xong cũng cần phủ lại thảm thực vật để trả lại môi trường khử cho môi trường đất.
– Phần lớn các nhà máy nước có cơ chế lọc Asen hiệu quả, gồm quy trình dẫn nước bề mặt, nước dưới đất qua dàn phun và lọc qua bể lọc gồm sỏi, cát thông thường, do quá trình khử sắt trong nước cũng khử phần lớn Asen trong nước nên người dân ở những vùng dùng nước giếng khoan nên chuyển sang dùng nước máy để ăn uống.
– 1 góc nhìn khá thú vị rằng khi thống kê, một số tác giả nhận định rằng đặc tính di truyền của người Việt có cơ chế chống chịu tốt hơn với nồng độ Asen so với các dân tộc khác ở Bangladesh có lẽ là liên quan đến lịch sử lâu đời sống trong môi trường rừng nhiệt đới.
——————————–
– Bàn thêm về cơ chế, việc chúng ta đào xới, khoan giếng làm thay đổi môi trường oxy hóa- khử của đất cũng giống như trong dân gian gọi là động mạch đất; nó có gây ra những biến động về mặt năng lượng với mạch đất đó với nguyên nhân cơ học (thay đổi trật tự của các lớp đất, cái dễ nhìn nhận, dễ phát hiện) và nguyên nhân hóa học (nước bị thay đổi tính chất, cái khó phát hiện ra) do đó nó để lại hậu quả ngắn hạn và dài hạn không thể suy đoán được về phong thủy 1 ngôi nhà. Ví dụ: Nhà tôi có thể không làm gì cả, nhưng 1 nhà khác gần đó động chạm đến 1 mạch nước mà đi qua nhà tôi thì tôi vẫn bị ảnh hưởng. Với 1 quy mô lớn hơn, làng xóm ở vùng thượng lưu phá đất thì ảnh hưởng đến làng bên cạnh ở vùng hạ lưu. Vùng núi khai thác mỏ nhiều nhưng không hoàn thổ thì ảnh hưởng đến vùng đồng bằng đông dân cư bên dưới. v.v.
——————–
Tài liệu tham khảo:
1. NGUY CƠ Ô NHIỄM ARSEN TRONG MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA. ĐẶNG VĂN CAN, ĐỖ TRỌNG SỰ và nnk
2. PGS. TS Trần Hồng Côn (Khoa Hóa – Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội)
3. Cơ chế làm chậm sự di chuyển của asen qua tầng chứa nước sâu Pleistocene” gồm Alexander van Geen, Benjamın C. Bostick, Phạm Thị Kim Trang và nnk

Từ tịnh tiến số tự nhiên đến lạc thư

Có lẽ để mọi người hiểu rõ hơn về con đường kết nối của toán học đến huyền học, thì 1 phương pháp tương đối đơn giản là đưa ra mối liên hệ sâu xa giữa 1 bên là bảng đếm số mà học sinh lớp 1 cũng đếm được: đó là đếm số từ 1 đến 108. Và hai là: bảng ma phương 3×3 lạc thư, nền tảng của mọi môn phong thủy hay các môn huyền học khác không chỉ của trung hoa mà cả ấn độ, lưỡng hà và phương tây. Các yantra cổ đại của ấn độ rất hay khi hệ thống bảng của họ có 1 nửa dưới thể hiện cho lạc thư, nửa trên lại thể hiện cho số tự nhiên với ranh giới là đường chéo 258 trong bảng lạc thư- ứng với trục Cấn- khôn của la bàn phong thủy 24 sơn. Điều đó có ý nghĩa gì, điều đó muốn nói lên rằng hệ số đếm tịnh tiến như vậy khi cộng lại với nhau tức mod 9, (1 bài viết khá lâu trước đó tôi nói là mod 10 là lạc thư và mod 9 là hà đồ) tại phần nửa trên của các yantra là thể hiện cho hà đồ, hà đồ là thể hiện các số tịnh tiến như đếm số của học sinh lớp 1 vậy, nửa dưới là lạc thư. Từ đó, tôi nhận ra rằng chắc chắn có dấu vết khi thiết lập bảng ma trận 3×3 cho số tự nhiên và tìm manh mối logic về lạc thư chuyển hóa ra sao khi cho số tự nhiên chạy liên tục từ 1 đến vô cùng. Các ảnh bên dưới thể hiện từng bước 1 cho sự biến đổi từ ma trận 3×3 số tự nhiên khi biến chuyển thành hình thoi (pháp toán học cổ đại có 1 pháp gọi là kim cương hóa ma trận,nó đơn giản thôi tức là nhìn nghiêng 1 góc 45 độ 1 hình vuông thì trật tự các số xếp thành hình thoi) sau đó 4 số chẵn âm 2,4,6,8 đứng yên; 4 số dương lẻ 13 79 xoay vần ngược nhau 180 độ. Sau đó, ép 4 số dương lẻ 1379 này vào sao cho thành hình vuông thì chúng ta có gì: lạc thư xuất hiện. Tuy nhiên, ta không thể hiện số lạc thư thông thường, ta phải thực hiện phép đảo ngược 45 độ lại 1 lần nữa để ra bảng của hình 5, đó là bảng ta sẽ sử dụng để truy tìm tính quy luật số học của cột lạc thư so với quy luật tịnh tiến đếm số ở cột hà đồ.
Cái hay nhất của nó là, khi ta cho chạy số từ 1 đến 9 thì xuất hiện nền lạc thư. Khi cho chạy tiếp từ số 10 đến 18 mod 10, ta thấy xuất hiện số 0, ta gọi là số 0 sinh ra đầu tiên tại vị trí tây bắc của ma phương 3×3. Tiếp tục tịnh tiến số, ta thấy số 0 sẽ chạy theo đúng đường lường thiên xích. Đến số tự nhiên 90, con số 0 đã chạy đến cuối con đường của nó. Đến số 99, số 0 biến mất, chỉ còn lại cái nền cũ là lạc thư. Và đến số 108, số 0 hồi sinh trở lại. Các con số lớn hơn 108 thể hiện vòng lặp lại của số 0, cho nên đến số 108 là dừng cho 1 chu trình sinh diệt của số 0. Ý nghĩa toán học của sự tịnh tiến số tự nhiên (hà đồ) cuối cùng lại có sự trùng khít với chu kỳ sinh ra, phát triển, chết đi và lại sinh ra (theo quỹ đạo lường thiên xích) của 1 con số đại diện là số 0 đôi khi tôi thấy như cuộc đời của 1 con người vậy. Trong phật giáo có nói đến 108 vị phật, 108 nỗi khổ của đời người. Trong văn hóa lưỡng hà, 108 thể hiện cho 108 pada vùng trời dùng cho vedic astrology; trong các trận đồ bánh xe năng lượng của văn minh maya có 36 số x3 cũng bằng 108. Nó là 1 con số có lẽ còn nhiều ý nghĩa hơn thế về mặt huyền học mà tôi chưa hiểu hết được, nhưng về mặt toán học, mối liên kết này đã khiến tôi suy ngẫm khá lâu, cũng đã viết bài về con số này khá lâu nhưng không giải thích, nay tôi giải thích kĩ cho mọi người cùng hiểu và suy ngẫm tiếp.