Trục mundi- trục xuyên tâm của 1 trận đồ

1 trận đồ luôn có 1 trục quan trọng- đó là trục mundi
Trục mundi= hay năng lượng chạy xuyên suốt toàn trận- giống như tủy sống của con người vậy, người xưa gọi các kinh mạch của con người là nadi và trục quan trọng nhất trong tủy sống là sushumma nadi, đi kèm với 2 nadi phụ quan trọng khác là ida nadi(kinh âm) và pingala nadi (pingala nadi).
Trục mundi của 1 trận đồ, xét trên đồ hình đơn giản hơn so với trận đồ trước dựa trên đoạn thẳng OA.
Xét trên thực tế: chúng ta có 1 miếng đất, và có 1 dòng mạch đất mạnh ở bên dưới, nó là tiền đề để thiết lập đoạn thẳng OA- hay trục của trận đồ.
Phân tích hình học của trận đồ trên như sau:
Từ OA ta có thể tạo ra 2 cung có độ dài bằng nhau là OM và ON; sao cho MC=CE=EN và OC=OE; từ các điểm này, ta tạo ra được 1 cấu trúc ngôi sao trong trận đồ đó mà tất cả các điểm phụ đều là các mắt xích năng lượng quan trọng trong cấu trúc trận đồ đó.
Lúc này: tỉ số của trục AB/MN= 0,86
Và tỉ số của cả hai đồ hình trên- sẽ liên quan đến 1 tỉ số quan trọng của 2 hành tinh tối quan trọng trong phong thủy mà sẽ có dịp tôi đề cập đến.

Tam giác vuông cơ bản 3-4-5. Nền tảng của toán học trong thiết lập trận pháp

Thiết lập các tam giác vuông pitago từ tâm trận”.
Trong lịch sử hình thành bộ môn phong thủy trên thế giới, chúng ta cần có góc nhìn rộng mở rằng không chỉ Trung Quốc có kiến thức về bộ môn trên mà trên thế giới cũng có kiến thức rất sâu rộng về bộ môn này. Phong thủy không chỉ bao gồm một vài môn được phân loại như loan đầu, bát trạch hay huyền không phi tinh như chúng ta vẫn nghĩ, mà là tổ hợp của nhiều bộ môn cổ hơn nhiều nhưng đã bị thất lạc rơi rụng bớt. 1 trong những phần quan trọng nhất trong bộ môn phong thủy bị rơi rớt đó chính là kiến thức về lập trận. Bản thân khái niệm “Lập trận” có nhiều mục đích: có trận dùng để đo đạc thời gian như 1 đài thiên văn, có trận thì dùng để xác định điểm mốc để từ đó xây dựng các cộng đồng dân cư sinh sống quanh đó mà giống người xưa ở ta chính là đình làng, có trận thì nằm ở vị trí đất quan trọng để làm bệnh viện, hay các công trình công quyền và tâm linh tức đóng vai trò quan trọng cho cả cộng đồng; và có cả các dạng trận có quy mô nhỏ hơn để sử dụng tại nhà của các gia đình nhỏ.
Loại kiến thức này đã khiến tôi thực sự bị thu hút và dành rất nhiều công sức để nghiên cứu và áp dụng, và do đó những bài viết đầu tiên để nói về cơ sở khoa học ẩn sâu của bộ môn phong thủy sẽ là những bài nói về cơ sở của việc lập trận.
…………………………
Trở lại với đầu đề của bài, chúng ta thấy định luật quan trọng đầu tiên của bất cứ một trận đồ đá nào đó là bao giờ cũng có một tam giác vuông ảo được xác định tại tâm của trận đồ đó. Chúng được tạo ra như thế nào và có vai trò gì trong định hình trận đồ đá?
Bước 1: Xét vòng tròn đen ngoài cùng, ta có cung CMANG = 240 độ, chia đôi chúng ra ta có các cung CMA = GNA=120 độ;
Bước 2: Từ tâm của trận O, ta lấy trung điểm của cạnh OC ra được điểm E.
Bước 3: Chỉ tập trung để tính toán tam giác OEF, với F là 1 điểm nằm trên đoạn thằng OB. Ta có thể tính được điểm F sao cho tam giác OEF là 1 tam giác vuông, với việc coi OF=1 và OE=2 thì đoạn EF= căn 3 dựa trên pytago: EF^2+ OF^2= OE^2
Điểm F trên là 1 điểm đặc biệt trong cấu trúc của trận đồ, ngoài tâm trận ra.
Bước 4: Từ điểm F lấy tang (EF/FA)= căn 3/5. Số này có một mối tương quan với góc beta B mà sau khi tính được góc này, ta sẽ vẽ được nốt cánh cung còn lại của trận là đoạn CDBHG.
Để đơn giản hóa: lúc này ta chỉ còn tính tỉ lệ giữa AB/MN= xấp xỉ 0,91
………………….
Việc xác định các tam giác vuông pytago bên trong một trận đồ giúp định hình được các điểm mà có vai trò để tạo ra các lớp bên trong, hay bên ngoài một trận đồ nhằm làm tăng cường vai trò của trận đó lên. Giống như bên trong cấu trúc các con số bên trong lạc thư- cái gốc gác của mọi môn phong thủy lý khí- cũng đều có con số pytago trong đó- mà được thiết lập theo tiêu chuẩn là từ trung tâm chiếu theo trục Tây Bắc- Đông Nam hay trục Càn- Tốn mà tôi sẽ tiếp tục nói tại các bài viết tiếp theo. Và tôi gọi nó là định luật đầu tiên cần nói đến khi xét bất cứ 1 trận đồ chuẩn tắc nào.

Phân tích loan đầu bằng mô hình hóa các cấu trúc elip của hệ thống trầm tích do sông

Lấy ví dụ với đồng bằng sông Hồng ở Việt Nam, khi các bạn ở trên máy bay, và nhìn qua ô cửa sổ- hoặc có thể nhìn qua google maps nếu không đi máy bay, sẽ thấy rất nhiều làng mạc hiện nay phát triển có xu hướng của hình elip- đặc biệt với các làng mạc cổ chưa bị đô thị hóa nhiều. Đây là 1 phương pháp khá hay mà tôi vẫn thường áp dụng khi nhìn bản đồ để phân tích mạch.
Cơ sở của nó là: trong quá trình sinh tồn của các cộng đồng người tìm đất sinh sống tại các vùng đồng bằng ngập lụt theo mùa trong quá khứ, họ sẽ tìm đến các vùng đất cao nhất có thể ở đó. Vấn đề là chẳng phải tự nhiên đất có chỗ cao chỗ thấp, chúng phải có luật, phải có lý do vì sao chỗ này cao chỗ kia thấp đặc biệt là đất đồng bằng có độ dốc chỉ vài độ.
Lý do này hoàn toàn có thể xác định được dựa vào kiến thức địa chất trầm tích học. Phần lớn sự phân chia cao thấp của đồng bằng nhìn theo quy mô rộng lớn là do hệ thống đứt gãy mẹ ở 2 bên cánh tạo nền để hình thành các bồn trũng tại vị trí trung tâm của chúng, góc nhìn lớn này tôi sẽ giải thích tại 1 bài khác vì nó thuộc mảng kiến tạo học. Còn sự xuất hiện của hình elip trong địa hình đến từ hoạt động động lực của sông, với quy mô nhỏ hơn và linh động hơn so với hoạt động kiến tạo đứt gãy. Nơi mà: động lực của dòng nước chi phối đến sự tạo hình thù của các dải đất.
Nó theo luật:
1.Động lực dòng chảy lớn thì sẽ cuốn các hạt trầm tích nhỏ như bùn, sét chỉ để lại các hạt nặng như cát, sỏi.
Động lực dòng chảy nhỏ thì sẽ chẳng đủ động lực để cuốn đi vật liệu gì, khiến ở đó chúng lắng đọng các trầm tích mịn như sét, bùn.
2. Động lực dòng chảy lớn khi để lại các hạt cát, chúng có xu hướng hình thành các đụn cát lớn- và đặc biệt là hay có hình dạng “thấu kính, elip”.
Động lực dòng chảy nhỏ thì có xu hướng san bằng các hình dạng thấu kính này.
3. Một dòng sông bao giờ cũng có thể phân đới ra nơi nào có động lực dòng chảy mạnh hơn nơi khác, do đó có thể phân tích thành phần của 1 dòng sông theo động lực dòng chảy, ví dụ: tướng cát lòng sông cổ, tướng đê cát dòng sông cổ, tướng lòng bùn sét bãi bồi lòng sông v.v.
…………………………………………..
Khi dựa vào kiến thức địa chất, và động lực dòng chảy và nhìn thấy các hình khối elip trên mặt đất; và nếu ta nhìn vào cách các công trình kiến trúc đã xây dựng trên đó: đình ở đâu, chùa ở đâu, nghĩa trang ở đâu, hệ thống đường đi có men theo đường bờ của đê ven sông không, chỗ nào xiên chỗ nào thẳng, thì ta đã có 1 thông tin rất rõ nét, rất quan trọng về động lực của vùng đất đó. Do đó, trận đồ hình elip, vốn có thể thiết lập riêng, hay thực tế là phạm vi để xây dựng những ngôi làng đầu tiên trong đặc thù địa chất vùng đồng bằng châu thổ có yếu tố Sông nổi bật, là 1 trận đồ rất cần phải học kỹ.

Trận đồ nên có tâm hay không? Góc nhìn từ phân tích 1 trận đồ thực tế

Các trận đồ đá cổ đại thường được nghiên cứu bởi các chuyên gia khảo cổ, lịch sử, văn hóa và thiên văn, thì thường sẽ phát hiện ra các quy luật của việc lập trận này sẽ tương ứng với cách tính thời gian, cách tính quỹ đạo của một số hành tinh trong hệ mặt trời như nhật nguyệt, mộc tinh thổ tinh kim tinh v.v., hoặc các định tinh quan trọng, cả ở các chòm trong đường hoàng đạo như aldebaran,altares, pegasus v.v. và ngoài đường hoàng đạo như chòm orion, bắc đẩu.
Vì các trận đồ này vốn đã được xây dựng ít cũng 3000 năm trước, do đó cần các thuật toán nghịch chuyển thiên văn để tìm lại vị trí tương đối của các định tinh vào đúng thời điểm đó để đặt vị trí các khối đá chính xác theo góc nhìn của người thời đó- do đó nó cần sự tham gia của nhóm toán học.
Từ các dữ liệu quan trọng đó, khi đã xác định lại được các hình dạng nguyên bản nhất của trận đồ,
Tôi đã sử dụng các thuật toán riêng biệt cho chạy bản đồ, và các dữ liệu khác như thành phần khoáng vật của các khối đá, địa tầng và kiến tạo của cuộc đất xung quanh, hình dạng của thế đất, đặc tính bồi đọng hay đào khoét của hệ thống sông ngòi, hướng vận hành của địa mạch vùng đất đó, để xác định vì sao người xưa đã đặt những công trình vòng tròn đá tại đó mà không phải ở nơi khác.
Ảnh trên ví dụ minh họa về 1 khu vực trong tổng số 50 khu vực tôi đang thí điểm thử nghiệm mô hình, cho thấy hướng chủ đạo của mạch đất vùng này là hướng Đông Bắc, và cột đá vòng trong(inner pillar)- không phải ở vị trí trung tâm trận, đặt tại vị trí phía Tây Nam(Tọa), và hướng về Đông Bắc (hướng). Người xưa đánh dấu vị trí tây nam này bằng một loại đá thạch anh, khác hẳn các khối đá granit còn lại; và tại hướng Đông Bắc có tổ hợp 4 khối đá chụm vào nhau thay vì 1 khối đá như chỗ khác. Với cách định hình rõ ràng về trục Đông Bắc- Tây Nam tức trục Cấn- Khôn này thì quan điểm của tôi là nó tương ứng với quỹ đạo của Mặt Trăng.
Phần lớn các trận đồ đá của vùng này(vùng tây nam nước Anh), từ đơn giản đến phức tạp đều không có tâm trận, không có khối đá nào đặt tại chính giữa cả; mà thường đặt lệch đi 1 khoảng cách nhất định mà khi tôi áp dụng thực tế theo nguyên lý của họ trong vài năm trở lại đây, tôi thấy đó là 1 nguyên lý rất hiệu quả khi tương tác với mạch đất mà không gây ra các phản ứng tiêu cực.
1 lưu ý quan trọng: Tất cả các bài từ 1 đến 6 đều là các dạng trận không phải hình tròn, chúng là các dạng trận đồ có sự xác định rõ ràng tọa và hướng- do đó đều được xếp vào dạng trận bắt buộc phải biết về địa mạch, nếu không biết chắc chắn mà sử dụng thì dễ gây ra rối loạn mạch- là 1 điều rất tai hại trong môn địa lý. Nếu như không biết địa mạch, thì bắt buộc phải sử dụng dạng trận hình tròn- theo 1 cách nào đó tôi gọi là an toàn, dễ dùng hơn nhiều so với các dạng trận tôi đã miêu tả từ phần 1 đến 6 này. Vì sao tôi lại nói về những dạng trận khó hơn đầu tiên, bởi vì chúng là những dạng trận nêu bật lên tầm tối quan trọng của địa mạch, nếu nắm chắc được những dạng trận này trước, thì ta mới thấy được cái hay của mạch đất.

Cách sử dụng con lắc trong nghiên cứu lý khí và phương trình T=2pi* (l/g)^0,5

Qua các bài trước, chúng ta nhận thấy các dạng trận đồ đặc trưng với các hình dạng khác nhau. Bài này, chúng ta xét thêm 1 yếu tố cần phải hiểu rõ, đó là khoảng cách của các khối đá. Để hiểu được những ngóc ngách sâu xa của vấn đề này, ta cần phải hiểu về đơn vị đo của thời cổ đại. Hệ thống huyền thuật của thế giới hiện nay có thể coi là chia làm 2 dạng tính toán, dạng 1 là đơn vị đo do người sumerian sử dụng tương ứng với đơn vị mét ngày nay. Và dạng đơn vị đo thứ hai có thể lấy đại diện là người Ai cập, người Bắc âu với công trình stonehenge với đơn vị megalithic yard. Trong khi nền tảng của việc phân chia theo 360 hay hệ lục thập phân là của người sumerian thì người Bắc Âu sử dụng hệ phân chia 366. và từ đó nó liên quan đến việc có cơ sở gì mà người bắc âu lại sử dụng đơn vị đo megalithic yard hay người sumerian sử dụng đơn vị mét…… cái lý do ẩn sau đó nó chính là cách sử dụng con lắc kết hợp với phân tích quỹ đạo thiên văn để tạo ra cách sử dụng con lắc đó.
………………………………………
Cách sử dụng con lắc có vẻ bí ẩn này tôi nhận ra là nó rất đơn giản và đã nằm ngay trong công thức mà tất cả chúng ta đã học trong môn vật lý cấp 3: gọi là dao động điều hòa của con lắc. Công thức là: T=2pi* (l/g)^0,5
với T là chu kỳ, l là chiều dài sợi dây, và g là gia tốc trọng trường đã biết có độ lớn xấp xỉ 9,81 m/s^2(phụ thuộc vào vị trí của các nền văn minh ở xích đạo hay ở các vĩ độ cao mà giá trị này có thể thay đổi một chút đến giá trị kích thước chuẩn)
chỉ với công thức quen thuộc này, chúng ta nhận ra cách người xưa biến tất cả kiến thức thiên văn vốn để đo thời gian (thời gian con lắc chạy n chu kỳ) thành đơn vị đo chiều dài (l) với gia tốc trọng trường coi như là không đổi. Mà từ công thức về chiều dài, sẽ tính ra được công thức về trọng lượng khi nền văn minh nào cũng lấy chiều dài chuẩn x3x3 thành 1 khối, và đổ nước đầy khối đó là ra khối lượng chuẩn – giống như cách người sumerian từ đơn vị dm đã tạo ra dm3 và ra đơn vị 1 kg=1 lít nước đổ đầy 1 dm3.
……………………………..
Vậy người xưa tính toán thiên văn thế nào để ra được các đơn vị nền tảng này:
Đầu tiên, cần xác định hành tinh nào là đối tượng tính thời gian, sau đó vẽ lại quỹ đạo hành tinh đó, sau đó xét vận tốc của hành tinh đó đang ở chu kỳ nào (khi nhìn từ trái đất, sẽ có thời điểm hành tinh đi nhanh, hành tinh dừng lại và hành tinh nghịch hành (retrograde)), bỏ các giai đoạn dừng lại và nghịch hành, xác định thời điểm vận tốc hành tinh chạy nhanh nhất, và đếm khoảng thời gian khi hành tinh đi được hết 1 độ trong 366 độ vòng tròn đã phân chia( bắc âu) hoặc 1 độ trong 360 độ(sumerian). Lúc này, để hành tinh nhanh đó đi hết được độ phân chia của 1 độ đã cho trước, trong 1 khoảng thời gian đếm được cho trước, thì chỉ còn tham số độ dài l của dây con lắc đóng vai trò quyết định. Tham số độ dài l đó chính là độ dài tiêu chuẩn quyết định đến toàn bộ các kỹ thuật huyền học sẽ áp dụng cho nền văn minh đó.
Lúc này, công thức trở thành: l=g*((T/2)/pi)^2
và chỉ việc căn chỉnh độ dài của con lắc, người cổ đại xác định được đơn vị chuẩn tắc của thiên văn đối ứng với độ dài, trọng lượng, thể tích áp dụng cho tất cả mọi lĩnh vực kiến trúc xây dựng, đo lường buôn bán, huyền thuật, lý khí, phong thủy, tâm linh v.v. giống như cách chúng ta đang sử dụng đơn vị đo lường mét, lít, kilogram trong cuộc sống vậy.
Các hành tinh được áp dụng trong công thức trên: Kim tinh, mặt trăng và mặt trời.
các con số quan trọng xuất hiện sau khi thực hiện các công thức trên theo cm khi ốp quỹ đạo hình tinh: 83cm; 52cm;100cm; 41,5cm; 30cm. và các bước cộng hưởng harmonic của chúng.
……………………………..
Chia 2 nhưng lại là 1: 2 nền văn minh cổ đại trên có công thức liên thông với nhau dựa trên con số tỉ lệ 5/ (pi+phi). Nó là công thức liên thông quan trọng biến cách phân chia 366 thành 360; biến 2 con số tối quan trọng của tự nhiên pi và phi thành con số 5, một con số quan trọng và cân bằng trong tự nhiên.
…………………………………
qua bài này, không giống như các bài trước nói lên tầm quan trọng cực lớn của địa mạch, bài này tôi nói lên tầm quan trọng cực lớn của thiên văn, trong quá trình định hình các môn lý khí cổ đại của các nền văn minh. Thời đại ngày nay con người thích những cái tính toán được hơn, do đó các môn lý khí như phong thủy lý khí- với nền tảng là thiên văn học- có lẽ là cái mà chúng ta dễ phân tích rộng rãi hơn môn địa mạch- 1 môn tuyệt hay nhưng khó truyền ra ngoài.

Cửu diệu phù

Học trò An có hỏi 1 câu hỏi hay và khá phổ biến về sự phổ biến của lạc thư tại các nền văn minh ngoài Trung Quốc thì như thế nào?
Thường thì mọi người vẫn nghĩ lạc thư hay hà đồ chỉ xuất hiện tại Trung Quốc, tuy nhiên qua những gì mà tôi tìm hiểu, chúng xuất hiện ở mọi nền văn minh khác, bài này tập trung vào cách vận hành lạc thư ở Ấn Độ mà tôi lấy ví dụ đặc trưng từ phân tích cửu diệu phù của người ấn.
Hệ thống của cửu diệu phù nhìn chung khá giống với huyền không phi tinh, khi trong huyền không phi tinh chia làm 9 vận và các vận không phải số 5 như vận 8 thì số 8 nằm ở trung cung và phi tinh theo lường thiên xích để phủ kín ma phương 3×3. Vấn đề ở đây là với các ma phương 3×3, mà vẫn phải tuân theo nguyên tắc đi theo đường lường thiên xích, thì với các con số trung tâm khác 5 thì bao giờ tổng hàng ngang, dọc, chéo sẽ có 1 tham số bị sai khác với phần còn lại, và giá trị sai khác sẽ = 9 và do đó gọi là các ma phương không hoàn hảo. Ở đây, chúng ta sẽ thấy con đường của việc sử dụng các ma phương không hoàn hảo chia làm 2 nhánh:
+Nhánh 1 giống như huyền không phi tinh đã rất phổ biến ở Việt Nam và nhiều người sử dụng, là tiếp tục sử dụng các ma phương không hoàn hảo đó để sử dụng cho tính toán về vận, v.v. sách viết nhiều rồi tôi không đề cập nữa.
+Nhánh 2 là cửu diệu phù của người Ấn, họ có 1 phương pháp rất tài tình để chuyển các ma phương không hoàn hảo thành hoàn hảo, và đây là điều bắt buộc, tiên quyết để sử dụng các pháp mà số trung tâm của ma phương không phải số 5. Và qua việc phân tích vài bước toán học đơn giản, họ sử dụng hệ thống này để sử dụng cho các pháp hệ thiên, đôi khi nói theo dân gian là cúng sao, đôi khi là dán phù kết hợp với việc đã phân tích lá số của những người trong nhà, đại loại phần ứng dụng là vậy tôi không quan tâm lắm đến phần này mà chỉ tập trung vào bản chất toán học trong cửu diệu phù mà thôi.
Bản chất là: với điều kiện của 1 ma phương hoàn hảo cần có hàng dọc, hàng ngang, hàng chéo cộng lại phải bằng nhau. 1 đường chéo khi modulus 9 phải tạo ra tổ hợp 147,258,369; và điều kiện cuối cùng là 1 đường chéo có số tăng dần của số tự nhiên.
Bước 1: Xác định số trung tâm
Với các ma phương có số trung tâm khác 5, chỉ có thể có 9 số là thỏa mãn điều kiện như trên bao gồm các số: 5,6,7,8,9,10,11,12,13. Các ảnh bên dưới tôi tính toán thử với số 1,2,3,4 là số trung tâm, và chúng đều có sự khác biệt về tổng của hàng ngang, dọc, chéo do đó không thể có các số trung tâm 1,2,3,4 và các số >14 được.
Bước 2: Trong cửu diệu phù, chúng ta nhận thấy từ số trung tâm( trừ số 5), các số còn lại chạy theo thứ tự giảm dần và đi về phía của quái Càn, và bao giờ cũng vậy, điều quan trọng cốt lõi là tại vị trí của quái Khảm, các số tại ví trí này bao giờ cũng phải chuyển- theo ngôn ngữ toán thì gọi là đảo ngược modulus 9, theo ngôn ngữ của huyền thuật ứng với con người thì đó là sự thay đổi về vận, về nghiệp, về hạn- tức là 1 bước chuyển lớn trong cuộc đời có thể là tốt lên hoặc xấu đi rõ nét. Ví dụ: số 3 = 12 vì 1+2 =3; số 4 =13 vì 1+3=4; lưu ý cho là trong các môn huyền thuật, kỹ thuật tính toán modulus và đảo ngược modulus sử dụng vô cùng nhiều. Và chỉ nhờ phương pháp đơn giản này tại đúng quái cần chuyển, tất cả các ma phương không hoàn hảo với số trung tâm khác 5 thì nay trở thành ma phương hoàn hảo, và người Ấn gom góp tất cả 9 trường hợp này lại để tạo thành 1 loại phù cửu diệu- hay hợp lực của 9 hành tinh gồm mặt trời, mặt trăng, sao mộc, sao thổ, sao thủy, sao hỏa, sao kim, kế đô và la hầu.
Bước 3: Quy luật sắp xếp của cửu tinh
Xét về mặt toán học, sự sắp xếp diễn ra theo chiều ngang có nhiều ý nghĩa hơn sự sắp xếp theo chiều dọc. Nếu xét tổng hàng ngang trong mỗi ma phương 3×3, ta sẽ thấy sự xuất hiện của cặp số 3,6,9 (khi modulus 9). Còn khi xét số hiển thị khi tính tổng các hàng ngang của cả 3 ma phương 3×3 sẽ tương ứng: 72 khi thủy tinh, kim tinh và mặt trăng xếp ở vị trí trên cùng. 63 khi mộc tinh, mặt trời và hỏa tinh xếp ở giữa, và 108 với thổ tinh, la hầu và kế đô ở dưới đáy. Bản thân nếu như các bạn học chiêm tinh, cũng nhận ra 1 cách tương đối là những sao xếp trên cùng đa số trường hợp cách cục sẽ là cát tinh; ở giữa là có cát có hung; và ở dưới cùng đa số là hung tinh.
Bước 4: Khi modulus 9 tạo ra được ma phương cơ bản và hoàn hảo, chúng ta sẽ lại phải sử dụng modulus 10 để tìm ra bản tính của 4 hành xoáy trộn bên trong mỗi pha phương. Với ma phương chuẩn chỉnh như lạc thư chúng ta thấy tứ đại đất nước gió lửa xoáy quanh hành không; nhưng với ma phương không phải số 5 ở giữa, ta sẽ thấy tổ hợp số 5 10 sẽ xuất hiện tại 1 cánh của ma phương, với vai trò giống hệt như các đại còn lại, ví dụ khi ta nhìn vào ảnh 2, vào vị trí của ma phương thủy tinh, số 8 ở giữa, cặp số 3-8 bị cắt đứt số 3, số nào đã ở trung tâm thì mất số ghép cặp sinh – thành của nó, các cặp số còn lại 1 6,2 7,4 9, 5 10 tiếp tục xoáy vần quanh số 8 trung tâm. Điều tương tự lặp lại với tất cả 7 cửu tinh còn lại. Cho nên, trong bất cứ một ma phương nào, miễn là hoàn hảo bất kể số ở giữa không phải số 5, thì ta đều thấy bóng dáng của cả hà đồ và lạc thư trong đấy. Như 1 câu đúc kết tôi đã nói nhiều năm về trước khi nhắc về hà đồ lạc thư: hà đồ 10 số thì mod 9, lạc thư 9 số thì mod 10.
Bước 5: Khi toán học đã phân tích xong, chúng ta nhận thấy có chút niềm tin về cấu trúc của các pháp mà người xưa đã để lại, toán học rất hay nhưng khó nhớ, do đó, khi toán đã xong nhiệm vụ của nó là tạo ra cấu trúc của 1 pháp, thì phần đắp thịt tạo ra cái hồn của pháp đó nó đến từ văn hóa, nghệ thuật, tâm linh. Trong hình ảnh đầu tiên của cửu diệu phù, chúng ta nhìn thấy các biểu tượng symbol: kế đô là cờ, la hầu là phướn, sao thổ là cánh cung, sao mộc là hình vuông, sao hỏa là hình tam giác ngọn lửa, mặt trời tỏa nắng ở chính giữa, thủy tinh là mũi tên của trí tuệ, kim tinh là phước lành của ngôi sao 6 cánh, mặt trăng là hình tròn biểu tượng cho tính âm, bình của tâm trí. Kết hợp lại với các con số được thể hiện ở bên trong các biểu tượng. Tạo ra 1 loại phù duy nhất có thể kết hợp được cửu tinh vốn là 9 hành tinh riêng biệt tụ hợp vào nhau mà không phá nhau.
Mục đích của bài viết này không chỉ để trả lời cho câu hỏi của bạn An, mà thực ra vẫn là mục đích mà tôi luôn luôn hướng tới, là tìm những điểm hòa đồng của vạn pháp từ những nơi rất xa nhau nhưng đều tựu lại có những điểm giống nhau về mặt bản chất. Chỉ có hiện tại, huyền thuật mới bị phân ra theo nước này nước kia, còn bản chất từ xa xưa, huyền thuật chẳng bị phân ra theo bất kỳ điều kiện gì, môn của vệ đà cũng giống như môn của phương tây, môn phương tây cũng giống như môn của ai cập, và môn của ai cập thì cũng giống như môn của trung quốc vậy.

Vector thuỷ động lực cho vùng ven sông Hồng- Thuỷ pháp nhằm xác định các đới năng lượng cao

Đã rất nhiều bài đăng trước tôi nói về các kiến thức cơ bản về địa mạch, về thiên văn, và tại bài trên là các thông số đầu vào quan trọng liên quan đến thuỷ pháp. Ví dụ tại hình trên, khi chúng ta nhìn vào dòng 2 của đoạn code do tôi viết về thuỷ pháp, thì các dòng lực nó phụ thuộc đầu tiên là vị trí của dòng nước chảy trên vị trí nào của Trái Đất, do Trái Đất quay ngược chiều và có hình elip, do đó các dòng nước khi chảy đủ dài sẽ chịu tác động của lực xoáy mà Bắc Bán cầu sẽ ngược lại với Nam bán cầu. Do Việt Nam ở Bắc bán cầu, do đó tôi viết phần mềm chỉ dành cho Bắc bán cầu mà nếu áp dụng tại Nam bán cầu sẽ bị đảo ngược kết quả.
2. Nhìn vào tổng thể, 1 đoạn code quan trọng nhất là các thông số đầu vào, khi phân tích bất cứ 1 khúc sông nào, sẽ có các thông số đầu vào sau bắt buộc phải có:
F= (vận tốc dòng chảy, vĩ độ thuỷ đến, vĩ độ thuỷ đi, chiều dài dòng sông và bán kính khúc sông) với các đơn vị quy về m và seconds.
3. Các phương trình khai triển của các thông số đầu vào tôi không cung cấp, bởi chỉ cần có các thông số đầu vào tại mục 2 cũng đủ để những người nghiên cứu phong thuỷ lâu năm cũng định hình được các vị trí nào của khúc sông sẽ hội lực hay tán lực. Và khi kết hợp được các điểm tụ cốt lõi của dòng sông với kiến thức của địa mạch mà tôi đã nói nhiều lần tại các bài trước đây, chúng ta có kết quả là tìm được nhiều vị trí khả quan để ứng dụng cho cả dương trạch và âm trạch.
4. Nói về các phương trình, các kiến thức khoa học thì thuỷ pháp vô cùng sâu xa và phức tạp, nói nhiều dòng cũng không hết, do đó tôi ngắt quãng và nói tiếp về phần tâm linh của thuỷ pháp mà theo kinh nghiêm của tôi sẽ như sau:
Những kỹ thuật điều khí liên quan đến thuỷ pháp:
Không giống như các pháp điều khí của địa mạch, các pháp điều khí của thuỷ pháp nó có vị trí đặt gốc lưỡi, cách bắt ngón tay, cách vào khí khác.
– Vận tốc di chuyển của người cảm khí: Thường thì khi cảm nhận các dòng thuỷ, vận tốc của người cảm nhận phải nhanh hơn so với cảm đất, đất thì cần chậm, đi chậm hơn vận tốc đi bộ bình thường mà thuỷ thì phải nhanh( đi nhanh hơn vận tốc đi bộ bình thường).
– Vị trí đặt lưỡi: Cảm thuỷ thường có xu hướng đảo lưỡi, chứ không cố định lưỡi như địa mạch, với xu hướng đảo lưỡi và hướng về phía trong của đỉnh đầu.
– Bộ phận cảm nhận thuỷ khí: Do thuỷ là các dòng lực ngang, khác với địa lực từ dưới đất lên và thiên lực từ trên rót xuống, do đó với thuỷ phải cho khí qua 2 tai. Và thường thì cảm nhận sẽ tốt nhất khi khí hậu lạnh, trời khô ráo.
– Cách bắt quyết khi cảm khí: Trong huyền thuật cổ đại, các ngón tay được phân ra dựa theo đặc tính hành của chúng. Mỗi ngón tay đại diện cho 1 hành, và cách kết nối các ngón tay tạo ra sự kết hợp của ít nhất 2 hành trong bất cứ trường hợp nào. Với trường hợp của thuỷ pháp: Nên sử dụng các quyết liên quan đến các ngón trỏ, ngón giữa và ngón cái tại các đoạn thuỷ hung hiểm và các ngón nhẫn, út tại các đoạn cát thuỷ. ví dụ khi gặp các đoạn thuỷ có xạ, hung thuỷ thì gần như người thầy bắt buộc phải bắt quyết liên quan đến 3 ngón đó để phòng thân, và do thuỷ có lực ngang nên thường sẽ để tay tại vị trí trung tâm của khí phần ngực là huyệt đản trung.
– Cách ứng phó với âm, hung lực: Thuỷ có sự khác biệt lớn so với địa, thuỷ có tính vui vẻ, hoà đồng, nhanh và nhẹ nhàng, nếu làm sai thì vẫn có sự tha thứ, khác hẳn so với địa lực vốn có tính nghiêm khắc, chắc chắn, làm sai thì hậu quả rất nặng mà không có sự tha thứ. Do đó, người cảm về thuỷ lực cũng không có nhiều những cấm kỵ như người cảm về địa lực, chỉ cần nhớ cách bắt quyết, cách đặt lưỡi, và tương tác 1 cách nhẹ nhàng khi đến đoạn thủy là cát, và cần tập trung cao độ hơn khi đến đoạn thủy là hung.
– Các phương pháp chuyển hóa khí:
Trong khi địa mạch có rất nhiều pháp để cải thiện dòng địa khí, thì thuỷ mạch rất là khó để chỉnh, nó phụ thuộc hoàn toàn vào địa thế, hình dạng, vận tốc dòng sông tự nhiên, chế độ hoạt động thủy văn theo mùa v.v. chứ con người không hoán cải được nhiều, do đó với thuỷ pháp nó hiệu quả nhất ở khâu đầu tiên của phong thuỷ là khâu chọn đất, còn địa pháp lại hiệu quả đều ở tất cả các khâu từ chọn đất đến cải tạo đất.

1. Trích đoạn đoạn code sử dụng cho phân tích thuỷ pháp

import tkinter as tk
from tkinter import *
import math

root = Tk()
root.title(“PHẦN MỀM THỦY PHÁP DÙNG CHO BÁN CẦU BẮC- DUY TUẤN “)

vantoc_Label = Label(root, text=”Nhập vận tốc dòng chảy(m/s) : “, width=30, height=5, highlightbackground=”purple”)
vantoc_Label.grid(row=0, column=0, padx=5, pady=1)
vantoc = Entry(root, highlightbackground=’yellow’, width=15)
vantoc.grid(row=0, column=1, padx=5, pady=1)

vido_Label = Label(root, text=”Nhập vĩ độ thủy đến-Hà Nội nhập 21:”, width=30, height=5, highlightbackground=”blue”)
vido_Label.grid(row=1, column=0, padx=5, pady=1)
vido = Entry(root, highlightbackground=’yellow’, width=15)
vido.grid(row=1, column=1, padx=5, pady=1)

vido1_Label = Label(root, text=”Nhập vĩ độ thủy đi-Hà Nội nhập 21.5:”, width=30, height=5, highlightbackground=”blue”)
vido1_Label.grid(row=2, column=0, padx=5, pady=1)
vido1 = Entry(root, highlightbackground=’yellow’, width=15)
vido1.grid(row=2, column=1, padx=5, pady=1)
l_Label = Label(root, text=”Nhập chiều dài dòng sông(m):”, width=30, height=5, highlightbackground=”blue”)
l_Label.grid(row=3, column=0, padx=5, pady=1)
l = Entry(root, highlightbackground=’yellow’, width=15)
l.grid(row=3, column=1, padx=5, pady=1)
r_Label = Label(root, text=”Nhập bán kính độ cong khúc sông(m):”, width=30, height=5, highlightbackground=”blue”)
r_Label.grid(row=4, column=0, padx=5, pady=1)
r = Entry(root, highlightbackground=’yellow’, width=15)
r.grid(row=4, column=1, padx=5, pady=1)

submit= Button(root, text=”OK”, width=30, height=5, highlightbackground=”orange”,
command= lambda: thuyphap(vantoc.get(), vido.get(), vido1.get(),l.get(),r.get()))
submit.grid(row=5, column=1, padx=5, pady=1)
def thuyphap(vantoc,vido,vido1,l,r):

…………………….Hết trích

 

 

2. Trích đoạn phân tích thuỷ động lực cho vùng bất kỳ (hạ lưu sông Hồng)