Tản mạn chuyện phong thủy sau chuyến du lịch seoul, Hàn Quốc.

Chuyến du lịch đi hàn quốc diễn ra chỉ có 4 ngày, tôi mới về được 1,2 hôm nhưng vẫn có cảm giác như mình vẫn đang ở đấy vậy, bởi lẽ ngoài mục đích đi thư giãn, tìm hiểu cảnh đẹp và đồ ăn thức uống, tôi muốn xem xem nước tiên tiến nó có để ý đến cái lĩnh vực mà tôi đang làm không. Và quả thật khi đặt những bước chân đầu tiên xuống sân bay, tôi bắt đầu hành trình khám phá những phương pháp mà hàn quốc đã làm với địa mạch nước họ, cả do tự nhiên vô tình và cả do đã dày công nghiên cứu, với 1 quy mô đúng kiểu của 1 nước công nghiệp, như kiểu họ đã cải thiện địa mạch thành phố của họ theo 1 cách cực kỳ hệ thống và bài bản. Thời gian chỉ có vài ngày, địa điểm cũng không bao quát hết được nên tôi lấy thành phố seoul làm đối tượng chính để phân tích.

Điều đầu tiên tôi ấn tượng khi du lịch ở Seoul đó là tỉ lệ các dòng địa mạch xấu- ác xạ là vô cùng thấp, thấp dưỡi ngưỡng quy luật tự nhiên thường thấy (đối chiếu với Hà Nội, Việt Nam), dù có cố bới lông tìm vết cũng không ra, thường thì các dòng địa mạch tốt hay xấu nó cũng phải có hướng, có tính liên tục rõ ràng, với chu kỳ phân bố theo hình sin xen kẽ nhau với những mạch ở gần dòng sống ít cũng phải vài trăm mét có 1 mạch nhỏ; nhưng ở seuol tôi gần như không thấy quy luật đó, thậm chí phải vài km tôi mới thấy được 1 mạch như vậy, điều này làm tôi vô cùng tò mò và bắt đầu tìm hiểu kỹ hơn về đặc điểm kiến tạo của thành phố, là thông tin đầu tiên là khung xương cơ bản định hình cho hướng và sự phân bố các dòng địa mạch.
1. Địa chất- Kiến tạo: Thành phố seuol có thể coi là xây dựng trên núi đá, những thung lung tương đôi nhỏ hẹp được phủ kín bởi các tòa nhà cao tầng chứ diện tích đồng bằng của nó tôi thấy là quá nhỏ, chỉ bằng 1/4 tp Hà Nội; thậm chí thành phố còn có rất nhiều đồi núi nhỏ nằm rải rác bên trong nó mà tôi nhận định chủ yếu là 2 loại đá chính là đá Granit(tuổi Jura 161 tr năm) và đá Gneiss (tuổi tiền cambri từ 2,5 đến 1,8 tỉ năm).
Granite là một loại đá đặc biệt phổ biến và chiếm gần 60% số lượng đá tìm thấy được trên bán đảo Triều Tiên có tuổi 161 triệu năm. Trong các thung lũng, và đặc biệt dọc theo sông Hàn, đá granit và đá móng được bao phủ bởi phù sa bao gồm trầm tích lỏng lẻo như bùn, cát và sỏi lắng đọng từ sông.

Độ tuổi của đá gneiss và đá granit của Seoul cách xa nhau đến 2 tỉ năm! và không có dấu vết của bất kỳ loại đá nào khác có độ tuổi ở giữa, cũng như các tài liệu địa nhiệt cho thấy nhiệt độ của lớp vỏ Trái đất bên dưới Seoul cao hơn nhiều so với bình thường – có lẽ tương đương với nhiệt độ tăng từ 40-50 ° C / km chiều sâu, và các khối đá granit nhô ra thành núi trên bề mặt đất cho thấy đã có 1 pha nâng tạo núi diễn ra liên tục và đã từ rất lâu. Khi đã có pha tạo núi xảy ra, thì quá trình phong hóa lại càng xảy ra mạnh, đá khi được nâng lên lại bị các dạng phong hóa hóa học, phong hóa cơ học, phong hóa do sinh vật phá hủy, làm vỡ các khối đá lớn thành các mảng nhỏ hơn để thành ra cuội, sạn, cát sét và được các hệ thống sông như sông Hàn vận chuyển thành phù sa tạo ra đồng bằng seoul ngày nay (ví dụ theo tính toán khối đá granit insubong cao 810 m có tốc độ bị phong hóa khoảng 6cm/1000 năm và mất 12,6 triệu năm để cao bằng mức của sông hàn hiện nay). Đặc biệt, do đá gneiss là đá có sức chống chịu với các quá trình phong hóa yếu hơn nhiều so với đá granit nên tại seoul chúng thường có độ cao thấp hơn, đỉnh núi thường có hình tròn, mịn và rất đều . Các đá granit nếu so về khả năng chống chịu phong hóa thì thật ra là thua xa đá vôi, nên cũng không thể có đỉnh chóp nhấp nhô lởm chởm như đá vôi mà ta hay thấy ở Hòa Bình. Những yếu tố về hình thể, nhìn đỉnh chóp đoán chủng loại đá này là 1 trong những thông tin quan trọng ban đầu giúp tôi định hình được trật tự địa tầng- kiến tạo của 1 vùng đất bất kỳ.
Các hệ thống núi ở đây được phát triển dựa trên hệ thống đứt gãy có 4 hướng cơ bản gồm á kinh tuyến Bắc- Nam, TB-ĐN, Đ-T và ĐB-TN. Với hệ thống các đứt gãy, và các hệ khe nứt nhỏ đi kèm tại 1 đất nước ôn đới có mùa đông có tuyết, các mạch nước đóng băng tạo ra sự giãn nở thể tích khiến các khối granit bị chẻ ra 1 cách tự nhiên tương đối đều đặn theo khe nứt giúp cho việc xây nhà dựa trên các vật liệu này dễ dàng hơn rất nhiều và được áp dụng gần như triệt để trong xây dựng đô thị.
Giống như bất cứ đô thị nào, những nơi trũng của thành phố bao giờ cũng phải được cung cấp bởi loại vật liệu nào đấy để bồi cao lên nhằm tránh trở thành rốn lũ ngập úng của cả thành phố, việc này đã bắt đầu từ hàng trăm năm hết đời này đến đời khác, mỗi 1 thời kỳ lại bồi thêm 1 chút, mỗi 1 công trình lại bồi cao phần móng lên cho nên tôi thấy có khả năng họ đã dùng các sản phẩm phong hóa của các loại đá gneiss và granit phủ lên toàn bộ diện tích này.
2. Hệ thống Sông và nước ngầm
Khu vực đô thị của Seoul có thể được chia thành hai phần (bắc và nam) bởi sông Hàn chảy về phía đông, được cung cấp bởi 8 nhánh. Với độ thẩm thấu cao, trầm tích phù sa tạo thành tầng chứa nước chính của Seoul và nước cũng đi qua tương đối chậm thông qua hệ thống khe nứt của đá granit- điều mà trong phong thủy đồng bằng tôi gọi là nước phải đi kèm với núi, thủy phải đi kèm với sơn, chúng không tách rời nhau mà nhiều khi là hòa vào nhau làm 1. Nước ngầm chảy từ các ngọn núi xung quanh về phía sông Hàn ở độ sâu tăng lên về phía sông Hàn với mức cao hơn (độ sâu càng lớn) trong mùa thu sau mùa mưa từ tháng 7 đến tháng 9(thời gian mà tôi đi du lịch) và thấp nhất (sâu nhất) mực nước ngầm vào mùa xuân. Lượng mưa trung bình hàng năm ở khu vực Seoul là từ 1200 đến 1300 mm và độ sâu trung bình đến đỉnh của mực nước ngầm là khoảng 12,3 mét. Nước ngọt thu được từ tầng chứa nước thông qua 15.000 giếng (năm 2000) khoảng 41 triệu mét khối nước ngầm được bơm hàng năm.
3. Ứng dụng trong phong thủy địa khí theo quy mô lớn
Tôi viết ra những phần về địa chất kiến tạo và hệ thống nước ngầm của seoul ở phần trên chỉ để chứng minh 1 điều: Làm phong thủy địa mạch quy mô lớn ở những thành phố này là quá dễ, nó vốn đã được tự nhiên phân bố các loại đá như granit, gneiss có khả năng làm bình ổn trường khí đất ở mức trung bình khá, nếu như lại được con người hiểu kỹ về nó để chữa nốt những nơi còn sót lại của các hệ khe nứt chiếu lên mặt đất thì hầu như không còn thấy chút dòng ác xạ nào dưới đất cả. Đặc điểm của các thành phố lớn như seoul là có rất nhiều ngôi nhà cao tầng có kết cấu móng cọc cắm rất sâu vào lòng đất, điều mà rất đáng lưu ý do có thể tuy không làm đứt được nhưng có thể gây xáo trộn các dòng địa mạch thì tôi cũng không phát hiện ra cả điều đó, và chính các loại đá địa phương có sẵn ở trên đã khiến hiện tượng này gần như được xử lý triệt để và theo quy mô rất lớn- (tất nhiên là còn những kĩ thuật riêng mà tôi có thể chưa phát hiện ra). Điều này khá là quan trọng với tôi bởi lẽ, địa chất hà nội không dễ làm như vậy, nó có khác gì túi than, túi bùn đâu, môi trường đầm hồ quá nhiều, đá móng ở trong trung tâm thành phố hà nội nằm sâu vài trăm- vài nghìn m dưới lòng đất,các địa mạch nhỏ phân bố theo đặc điểm trầm tích, theo thủy ngầm nhiều hơn là theo sơn, nhưng nó là những minh chứng đầu tiên cho thấy cách xử lý về phong thủy hiện đại, phong thủy địa mạch tại các nền kinh tế phát triển đã tiến xa đến đâu, đã làm theo quy mô hệ thống lớn như thế nào, làm thế nào mà tốt từ trong nhà đến ngoài ngõ, đến cả đường phố cũng vẫn tốt, thậm chí khi đã theo 1 công thức kĩ thuật nhất định, tôi cảm tưởng như không cần thiết phải có người làm và nghiên cứu về lĩnh vực này nữa mà chỉ cần làm đúng theo công thức như vậy thôi, nếu mà ở Hà Nội được như vậy thì tốt quá.
Có lẽ, sẽ còn cần phải đi đến nhiều nơi khác để định hình cách các nước tiên tiến đã đi xa đến đâu trong lĩnh vực này, mà nổi tiếng nhất vẫn là đại diện 4 nước Đức, Áo, Anh và Pháp; những nước này hệ thống núi không có nhiều, đồng bằng là chủ yếu, là 1 điểm tôi thấy có sự tương đồng hơn so với Hà Nội, và chắc chắn sẽ có những đầu mối về 1 hệ phương pháp áp dụng được cho bài toán vĩ mô dễ làm hơn cho vấn đề cải tạo trường khí đất tại Hà Nội mà những người bạn ở những đất nước phương Tây này hay nói với tôi về sứ mệnh của họ: “Healing the land”.

Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Ondol, một hệ thống sưởi ấm độc đáo của Hàn Quốc
<Một căn phòng được sưởi ấm bằng ondol trong một ngôi nhà truyền thống của Hàn Quốc (hanok).>

“Ondol” là ký tự Trung Quốc trong từ tiếng Hàn “gudeul”, có nghĩa đen là “đá nướng”. Vì vậy, ondol đề cập đến một hệ thống sưởi ấm trong đó đá được “nướng” để làm nóng sàn. Lịch sử của ondol ở Hàn Quốc kéo dài hàng ngàn năm, được chứng minh từ các hiện vật thời tiền sử được khai quật từ thời kỳ đồ sắt (khoảng thế kỷ thứ 2) và tranh tường Goguryeo. Những hệ thống Ondol sớm nhất chỉ làm nóng các bộ phận của một căn phòng là phòng ngủ. Hệ thống sưởi ấm toàn bộ căn phòng đầu tiên xuất hiện vào giữa thế kỷ 13 của triều đại Goryeo và trở nên phổ biến khắp bán đảo Triều Tiên vào đầu triều đại Joseon (cuối thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 16). Giai đoạn phát triển dài của Ondol đã dẫn đến các hệ thống khoa học và cấu trúc phức tạp.
Khía cạnh quan trọng nhất của cấu trúc ondol là gorae, khu vực mà khói từ các viên đá nóng đi qua (xem sơ đồ bên dưới). Gắn trên gorae là hệ thống mạng lưới các cột đá (gudeul), trên lớp đá là một lớp đất sét bùn đỏ để ngăn chặn khói thấm vào phòng. Khi một ngọn lửa được thắp sáng trong lò sưởi, lửa và khói nóng đi qua gorae dưới các phòng, nâng nhiệt độ của sàn nhà và sau đó đi qua ống khói ở cuối. Nguyên tắc của ondol đồng thời sử dụng dẫn, bức xạ và đối lưu của nhiệt. Nhiệt được tiến hành thông qua các tảng đá gắn liền với sàn nhà, và sau đó tỏa ra khắp toàn bộ sàn nhà. Nói cách khác, nhiệt độ ấm được duy trì thông qua sự đối lưu của không khí.
Chỉ những nơi khác trên thế giới sử dụng các nguyên tắc sưởi ấm tương tự là các phần của Đông Bắc Trung Quốc và Mông Cổ. Đông Bắc Trung Quốc sử dụng hệ thống ondol sớm chỉ sưởi ấm một số khu vực nhất định của một phòng ngủ, trong khi ở Mông Cổ hệ thống sưởi ấm ondol được sử dụng cho tầng ger, nhà ở truyền thống (còn gọi là yurt). Hệ thống cài đặt gudeul trên toàn bộ sàn nhà chỉ được tìm thấy ở Hàn Quốc. Ưu điểm của nó là hiệu quả nhiệt, việc sử dụng tiết kiệm nhiên liệu và cơ sở vật chất, và độ bền. Ưu điểm lớn nhất của tất cả là nó tốt cho sức khỏe.
Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: 4 người, bao gồm Duy Tuan, mọi người đang cười

Các phương pháp bổ trợ cho phong thủy địa mạch- phương pháp điện (địa vật lý)

Như tôi đã từng trình bày, hiện nay việc đo đạc tính toán phong thủy rất cần có sự kết hợp với các kiến thức khoa học chuyên nghành địa chất, địa vật lý và môi trường bởi các nghành này cho ta các số liệu rất đáng tin cậy về tính chất vật lý, các đới kiến tạo, trầm tích, đới nước ngầm dưới lòng đất mà ta không nhìn thấy được. Mà phong thủy địa mạch qua kinh nghiệm của tôi lại cho thấy mối tương quan cực lớn với các hình dạng, hướng chảy của các dòng nước ngầm, đứt gãy, vv
Phương pháp đo sâu điện
Phương pháp này sử dụng 4 cực trong đó 2 cực phát dòng điện DC 1 chiều có cường độ 1 Ampe để phát ra dòng điện xuống lòng đất; 2 cực còn lại là cực thu đo dòng điện dưới lòng đất bằng vol kế. Cơ sở của phương pháp là khi dòng điện chạy dưới lòng đất thì mỗi loại đất đá nó có tính chất dẫn điện khác nhau, tính dẫn điện còn phụ thuộc vào độ ẩm, hay thành phần nước dưới lòng đất do đó có thể đo được nơi có nước ngầm nếu tín hiệu đủ lớn, hoặc có thể đo được hố rác thải cũ nếu tài liệu đủ lớn. Phương pháp cũng giúp ích cho quá trình xác định ranh giới các lớp đá, và các đới quặng kim loại nếu có.
– Việc đo được các cấu trúc dưới sâu vài chục đến vài trăm mét dưới lòng đất phụ thuộc rất lớn vào việc người đo chọn hệ điện cực gì để đo đạc (Hình 3: sơ đồ mạng lưới đo điện, các chấm đen là các đơn vị hiển thị giá trị đo). Có các hệ điện cực pole-pole, dipole-dipole, wenner và schlumberger (Hình 5 miêu tả sự khác nhau giữa các hệ cực, và ưu nhược điểm của mỗi loại hệ cực- Tôi thường dùng hệ wenner- Schlumberger do ưu điểm đo được độ sâu lớn trong 1 phạm vi nhỏ khoảng 100 m đổ lại)
– Khi sử dụng với mỗi hệ cặp cực thì có 1 hệ số K gọi là hệ số thiết bị (geometric factor) mà cần phải nắm rõ để đo đạc chuẩn được hiển thị tại hình 4, hình 7.
– Trong quá trình đo, vol kế sẽ hiển thị ra giá trị ∆U tính ra Volt, I tính ra Ampere, khoảng cách là mét, thì ρ là Ωm hay Ohm.m. theo công thức ρ= k.∆U /I Đối với hệ schlumberger- wenner tôi hay dùng thì hệ số k= pi.n.(n+1).a
– Sau khi đã có số liệu điện trở suất, việc quan trọng cần làm là có phần mềm để chạy inversion ra mặt cắt địa điện. Các phần mềm được các công ty địa vật lý trên thế giới tạo ra thường đi kèm cùng hệ thống thiết bị của công ty đó tuy nhiên do giá thành cao, khi ta dùng thiết bị của mình thì cần có bước thiết lập số liệu đo của mình có cấu trúc giống hệt số liệu của thiết bị của công ty đó để chạy phần mềm. Hình 6 miêu tả về cấu trúc dữ liệu của 1 file đo điện tiêu chuẩn hệ cực wenner- schlumberger. Hình 8 miêu tả về quy trình tôi chuyển toàn bộ số liệu đo sang file excel sau đó export về file .dat để phần mềm có thể đọc.
– Hình 1. Miêu tả quá trình hiển thị số liệu đo bằng phần mềm, khi read data mà phần mềm chấp nhận quá trình đọc thì tức là ta đã hoàn thành 1 phần quy trình xử lý số liệu, trong quy trình này ta có thể sử dụng chức năng inversion để phần mềm nội suy mặt cắt địa điện dưới lòng đất. Thông thường độ sâu đo được tương đối chuẩn xác bằng 1/3 so với tổng chiều dài tuyến đo. Có thể chỉnh lý số liệu bằng cách cắt bỏ các tín hiệu nhiễu, thiết lập bề dày và độ sâu các điểm đo để kết quả chính xác hơn.
– Nhược điểm của phương pháp:
không đo được cho nhà chung cư, nhà đã ốp gạch nền, sàn gỗ.
Phương pháp cho kết quả ở ngưỡng tương đối, chứ không chính xác tuyệt đối
Hệ máy ở ngưỡng hiện đại trên thế giới thì chi phí quá cao, 1 cá nhân thì không mua được, những loại này thì độ chính xác cao hơn rất nhiều do tự động có chức năng lọc nhiễu điện trường thiên nhiên,dòng tellur và phân cực kích thích, v.v.
Với diện tích quá nhỏ(vài chục m2- ví dụ nhà dân có diện tích nhỏ) thì phương pháp không có tác dụng nhiều.

Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.

Sứ mệnh của người làm phong thủy địa mạch

Địa mạch, một từ mà nói ra thật sự có nhiều người sẽ không thể hiểu, và cũng sẽ không tin, bởi nó đúng là 1 loại không thể đo đếm được kể cả dùng máy móc cũng không đo được, tôi vốn xuất thân làm về địa vật lý, dùng cũng rất nhiều hệ máy để đo đạc thông số dưới lòng đất, từ hệ máy từ proton vô hướng, đến phóng xạ mặt đất, đến điện trường tự nhiên, địa điện, radon, rồi cả phương pháp địa chấn, không chỉ dùng máy, tôi còn dùng tất cả các kiến thức về địa chất, nhìn vết lộ đá bất kỳ để hiểu cơ chế thành tạo tổng quan của khu vực, nhìn đứt gãy để biết hướng động lực chi phối trong vùng, nhưng tất cả dù vô cùng hữu ích nhưng đều chỉ dừng ở mức tạo ra thông tin tham khảo khoanh vùng lại các vùng trọng điểm và ở tầm vĩ mô thì dùng được, chứ các hệ phương pháp đó không thể đo ở mức độ vi tế như những gì mà tôi nhận thấy, những địa mạch cực mạnh chỉ rộng có 4cm, chẳng có cặp cực điện nào đo chính xác được như thế; cũng chẳng đo được cái địa mạch nó cứ rung động sang ngang một chút khoảng vài cm trung bình mỗi 10 phút và nhìn giống con rắn , giống như dây đàn đang rung vậy, đó là với địa mạch mạnh mà tôi vẫn tương tác và phân tích trong suốt 3 năm nay, những địa mạch khác, vốn trước tốt sau bị phá; hoặc những địa mạch rất xấu, những địa mạch rối loạn trong quá trình tôi hành nghề thì muôn hình vạn trạng về hình dáng, về độ rung động, độ sâu, tính chất mạnh yếu, có lẽ chính thế lại hay vì nó biến đất vốn chẳng có gì để nhìn thành ra lại rất sống động, rất đáng để tìm hiểu, và rồi lúc nào đấy thì nhận ra có thể nó là niềm vui khó bỏ, và trở thành sứ mệnh của mình. Có một đặc điểm là, khi càng nghiên cứu sâu tôi càng thấy lĩnh vực này sâu không thấy đáy, đến sứ mệnh chung chung là phong thủy địa mạch kia cũng phải phân ra những nhiệm vụ khác nhau bởi không thể học và làm hết được, tôi tạm sơ bộ phân chia ra các nhiệm vụ như sau:
1. Người chuyên tìm địa mạch: bằng bất kể phương pháp gì, có thể bổ sung tất cả các dạng máy địa vật lý hiện có để giới hạn lại về hướng địa mạch và vùng có thể có mạch mạnh, tìm ra được các địa mạch chính và còn mạnh, tìm các nơi giao cắt của các địa mạch này, phân tích biểu đồ rung động theo thời gian trong ít nhất 1 năm bởi mùa khô vị trí và độ rung động khác mùa mưa do chênh lệch chế độ oxy hóa khử dưới lòng đất, vẽ lại trên sơ đồ sau đó chuyển dữ liệu cho nhóm người thứ hai. Trong xã hội, những nghành phù hợp là địa chất, du lịch thích lang thang đây đó như phượt thủ v.v. tức những người thích gần gũi với tự nhiên và thích di chuyển.

Không có mô tả ảnh.
2. Kiến trúc sư xây dựng trên địa mạch: Xây dựng bởi nó là 1 phương pháp khuếch đại lực của địa mạch, và có thể dùng các công trình này cho mục đích công cộng như trường học bệnh viện, công viên v.v. người kiến trúc sư trong lĩnh vực này dựa trên bản đồ đã được vẽ, xây dựng lên các công trình đầu tiên là không ảnh hưởng suy yếu mạch, sau đó là khuếch đại mạch. Một số Ví dụ: cấm không thiết kế kết cấu các cọc móng đâm sâu vào trúng tâm địa mạch, các cọc này phải ở rìa biên của mạch theo tỉ lệ cân bằng. Ngoài ra, vật liệu xây cột cần là loại đặc biệt phối với vật liệu trải nền để có thể khuếch đại được địa mạch. Nghành nghề kiến trúc sư có thể là những người phát huy được nhiệm vụ này tốt nhất.

Không có mô tả ảnh.
3. Người chuyên bảo vệ và phục hồi địa mạch: có lẽ đây là nhiệm vụ khó nhất, bởi phá thì dễ hồi phục thì mới khó, và không bao giờ được tốt như trước cả, nhưng đây lại là nhiệm vụ quan trọng và phổ biến nhất cần phải làm vì nó giống như khâu sửa chữa và hồi phục lại cho tự nhiên vẻ đẹp vốn có của nó vậy, không chữa nhiều thì cũng phải chữa 1 ít. Kiến thức chính cần có là sử dụng tài liệu của nhóm người thứ nhất và thứ hai, quản lý và theo dõi về tính chất địa mạch trong suốt quá trình từ lúc tìm ra, xây dựng nếu có và sau quá trình xây dựng, theo thời gian cần xem xét liệu có bị ảnh hưởng gì không nếu vô tình có các công trình khác chém ngang qua nó. Sau đó là các kĩ thuật hồi phục địa mạch, sử dụng lực xoáy, sử dụng các dạng khoáng vật có tính nối kết cao khi gặp nước gọi là khoáng vật trám mạch, kĩ thuật đảo lưỡng cực v.v. những người phù hợp là làm về khoa học môi trường (các thông số môi trường có độ tương đồng rất lớn với độ mạnh yếu của địa mạch, ví dụ chế độ môi trường oxy hóa khử của các tầng đất); người biết về khí và có nền tảng về khí (lúc hồi phục mạch mất vô cùng nhiều sinh khí bản thân)
Có lẽ 1 quốc gia, 1 vùng đất, kể cả không ai nói phải làm gì, thì tự nhiên vùng đất đó cũng sẽ tự đào tạo ra những người có nhiệm vụ như vậy không cần phải viết, tuy nhiên, tôi vẫn thích tính hệ thống và logic sâu chuỗi của 1 vấn đề, tính cần thiết phải có 1 hệ thống những con người yêu thích và muốn bảo vệ thiên nhiên trong tất cả các góc nhìn từ chất lượng môi trường nước không khí đất, đến năng lượng, đến các dòng địa mạch nên viết ra những dòng này. Những điều này, là ở tầm vĩ mô hơn và ý nghĩa hơn so với việc xem phong thủy đơn thuần cho 1 căn nhà của 1 khách hàng, nhưng thực tế là chẳng đem lại 1 lợi ích gì về mặt vật chất cho người thực hiện, thậm chí phải mất tiền mà mua vật liệu, nhưng tôi nghĩ đây lại là 1 hình thức giúp nâng cao được ý thức biết ơn vùng đất, và từ đó trả ơn cho đất, nơi chúng ta đã sinh ra và đang sinh sống.

 

Phân loại kỹ thuật địa châm (1 kỹ thuật trong nhóm kỹ thuật lập trận đồ)

Khi nói về địa mạch 1 vùng đất, có 2 kỹ năng trọng yếu 1 là chọn đất, tức là có thể lập được sơ đồ năng lượng địa mạch của vùng đất đó, các mạch chạy theo hướng nào, độ rộng của mạch bao nhiêu, độ sâu mạch áng chừng là bao nhiêu, tính chất thay đổi theo mùa khô và mùa mưa như thế nào, có liên hệ như thế nào đến địa hình, địa chất như kiến tạo, đứt gãy, trầm tích; có những vật liệu có độc tính, có phóng xạ không v.v. từ đó ta mới ra quyết định chọn đất, đất này tốt hơn đất kia ở điểm gì, ưu nhược của mỗi vùng đất có thể chọnv.v.
Kỹ năng trọng yếu thứ 2 là chữa đất (healing the land), là mục đích mà các chuyên gia địa mạch đi theo, tức thay vì phải chạy theo các yêu cầu của chủ nhà khi xem hay sửa xong 1 miếng đất như ở nhà này có giàu không, có lên chức không v.v. thì các chuyên gia địa mạch sẽ chữa cho đất tại nơi cần được chữa, nó là việc đem lại lợi lạc trước tiên là cho môi trường sống của người chủ nhà sẽ sống thời gian dài tại không gian đó; và từ sự lợi lạc đó tự nhiên đáp trả 1 lợi ích nào đó với chủ nhà, nhỏ thì trong căn nhà đó, lớn hơn thì là 1 vùng đất, do đó nó là 1 việc tất cả đều có lợi và an lành hơn nhiều là chạy theo mục đích riêng của chủ nhà vốn kích thích lòng tham và không mang tính lâu dài. Trong thực tế, không có vùng đất nào là tốt từ đầu đến cuối cả đặc biệt là ở thành phố do mật độ xây dựng nhiều, môi trường ô nhiễm, cọc khoan quá nhiều v.v., thì với kĩ năng này, các chuyên gia địa mạch khoanh vùng các điểm xấu lại và tiến hành chữa lại chúng để mảnh đất tổng thể là cân bằng lại, để tạo môi trường địa mạch tốt hơn cho các sinh vật sống trên đó. Cách chữa có nhiều cơ chế: gồm cơ chế hấp phụ, cơ chế chuyển hóa, cơ chế cưỡng ép, v.v. Và tất cả các cơ chế đấy đều nằm trong 1 kỹ thuật được gọi là địa châm.

Sơ đồ vòng tròn đá Stonehenge- các loại đá, vị trí của từng viênKhông có mô tả ảnh.
Kỹ thuật Địa châm có thể phân loại như sau:
1. Xét về thời gian tác động: Có 2 loại 1 là cắm tạm thời xuống đất và 2 là cắm vĩnh viễn xuống đất. Loại cắm tạm thời có vẻ ít phổ biến hơn: ở loại này, các cọc được chế tạo đặc biệt: 1 cọc bằng thanh đồng rỗng có kích thước chiều dài gần 1m, bên trong chứa rất nhiều các loại vật liệu đặc biệt (khoảng >20tr/ cọc); các chuyên gia địa mạch cắm vào để ổn định 1 thời gian rồi sau đó rút ra để cắm vào chỗ khác cho tiết kiệm do chi phí mỗi cọc quá lớn.
Loại 2: loại vĩnh viễn cắm xuống phát huy vai trò lâu dài hơn, vật liệu không cần thiết phải ở ngưỡng đặc biệt nhất nên chi phí cho mỗi 1 cọc không đắt như loại 1, tuy nhiên do cắm vĩnh viễn nên hiệu quả lâu dài và ổn định hơn.
2. Về hình dạng của kim châm: có 2 loại, 1 là kim dạng cọc như trên đã nói là ống đồng rỗng dài gần 1m; 2 là dạng cục hình vuông nhỏ hơn và chi phí rẻ hơn nhiều. Bản chất là ở dạng trụ thì tỉ lệ giữa chiều dài và chiều rộng lớn (từ hóa của Trái Đất lên 1 vật hình trụ sẽ mang tính bất đồng nhất cao nhất), do đó nó được dùng để áp chế là chính trong khi các cục hình vuông (tỉ lệ giữa chiều dài và rộng bằng nhau do đó từ hóa của trái đất lên cục này dễ đồng nhất hơn) dùng lành hơn, linh động hơn và mang tính chuyển hóa nhiều hơn.

Ứng dụng với những công trình nhỏ như nhà ở, quy tắc lập trận vẫn phải tuân theo đầy đủ các quy tắc đã có từ xa xưa.

Không có mô tả ảnh.

3. Phân loại dựa theo hình dạng của phác đồ đặt cọc
Có rất nhiều các hình dạng được áp dụng như thất tinh trận, trận theo chu kỳ vòng tròn, trận hình chữ nhật, trận mặt trời, ngôi sao david, trận quả trứng là những loại phổ biến nhất. So sánh với cơ thể con người thì giống với lối châm theo huyệt đạo, kinh lạc cố định, bệnh nào thì có phác đồ chuẩn tắc có sẵn rồi.
Loại thứ 2 là: xấu đâu tác động đó, hình dạng của trận là hình dạng của năng lượng xấu tại vùng đất đó trong thực tế. So sánh với cơ thể con người thì giống với lối châm cứu á thị huyệt, đau đâu châm đấy, mỗi người khác nhau thì sẽ châm ở vị trí khác nhau.
Khi đã lựa chọn được 3 bước trên, thời gian, hình dạng của kim, hình dạng trận cần lập cho vùng đất đó, thì đến kĩ thuật cao cấp nhất của kỹ thuật địa châm, đó là định hình tâm trận.
4. Phân loại dựa vào sự định hình của tâm trận
-Trận đồ có tâm chính giữa và hữu hình
-Trận đồ vòng tròn có tâm chính giữa nhưng vô hình
-Trận đồ vòng tròn không có tâm chính giữa mà có cọc hữu hình đặt lệch so với tâm vô hình.
Trận đồ có tác dụng lan xa hơn được hay không , đất có chữa được hiệu quả nhất hay không cũng nhờ sự định hình tâm trận này, nó là tinh hoa của 1 chuyên gia phong thủy địa mạch. Khi tất cả các kỹ thuật về địa mạch đã thực hiện xong cho 1 khu đất, thì coi như là hoàn thiện xét về mặt địa, trong thực tế tức là nền móng của công trình xây dựng, còn việc thiết kế kiến trúc ra sao, đặt hướng thế nào, chất liệu là gì để tăng lực cho địa dựa vào lực của mặt trời, tức bản chất là tạo mối liên kết giữa lực địa từ dưới lên và thiên từ trên xuống- nói theo ngôn ngữ phương đông là âm dương hòa hợp, âm dương cân bằng thì sẽ viết vào những bài khác- dựa trên những tài liệu của những nhà khảo cổ thiên văn học mà tôi đã tham khảo.

 

 

Mê cung, 1 cách mô tả về lạc thư bậc cao riêng của các quốc gia phương Tây

Không có mô tả ảnh.

Hệ thống hóa các cấp địa mạch

Từ hồi bước chân vào cánh cửa đại học với chuyên ngành địa chất, tôi đã bị đất cuốn hút bởi vẻ đẹp của nó, về những tính chất vật lý hay hóa học của từng loại đất đá, tức là những tính chất hữu hình và đo đạc được cho đến khí phát triển hơn khi bị cuốn hút bởi những tính chất vô hình là năng lượng địa mạch. Đối với tôi, nhữ’ng tính chất vô hình nếu không hệ thống hóa được thì nó là vô giá trị”, chẳng đáng giá 1 xu, bởi tôi không thể giải thích được vì sao lại có những mạch tôi biết được đó, với hướng và độ rộng như thế lại tồn tại, sao nó lịa có rung động theo mùa do đó từ lâu rồi tôi cố gắng đi tìm về 1 hệ thống giải thích được cho hệ thống vô hình của địa mạch này, và tôi coi nó là vô giá, tiền bao nhiêu cũng không đáng so với những kiến thức hệ thống hóa này. Tất nhiên, những cái tinh hoa nhất thì phải giữ không bao giờ nói với ai được nhưng những cái đại ý chính để những người anh em bạn bè có cùng sở thích về đất có thể tham khảo lại có thể chia sẻ được. Bởi đa số các anh em là đi theo hệ thống phương đông như âm dương, ngũ hành, hà đồ lạc thư v.v. trong khi tôi lại theo hệ thống địa chất và vật lý, nên có thể 1 số khái niệm anh em sẽ không hiểu thì mong anh em sẽ tra cứu google các khái niệm đó để hiểu rõ hơn.
Nội dung của hệ thống hóa đia mạch tôi đưa ra theo trình tự từ những lực vĩ mô cho đến vi mô như sau:
1. Quy mô cấp lục địa (Cấp 1)
Các vùng núi phía tây bắc và 1 phần bắc trung bộ việt nam là dải nối cuối cùng của các hệ thống núi khu vực tây tạng, nó được để cập đến trong các mô hình kiến tạo của Tapponier với thuyết thúc trồi; nhìn vào trước đó vào kỷ Trias là giai đoạn mà lãnh thổ việt nam nằm trong vùng biển nông, đặc trưng bởi các thành tạo đá vôi tuổi Trias giữa xuất hiện khắp nơi từ ninh bình, hà nam, chạy dọc lên hòa bình v.v. và rất nhiều vùng đất khác nữa. Vậy vì sao vùng biển này giờ lại biến thành những ngọn núi cao, đó là do vào giai đoạn Eocen mảng Ấn Độ lao với vận tốc cực nhanh va vào mảng Châu Á khiến toàn bộ nơi này với môi trường có địa hình thấp như biển, ao hồ bị ép mạnh và trồi lên thành 1 khối lớn chạy gần như cắt ngang lục địa Châu Á, lực ép trồi khiến cho toàn bộ vùng nam á như Nepal, bhutal, bắc ấn độ nâng lên và có các dãy núi cao nhất thế giới. Tại phần rìa ngoài bên phải của đới đụng độ, có 2 lực chính xuất hiện, 1 lực đi theo hướng Tây- Đông là phần tạo ra các con sông Hoàng Hà và Trường Giang ngày nay của Trung quốc; lực ép thúc 2 theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đi qua khu vực Vân Nam Trung Quốc và đi tới nước ta theo hệ đứt gãy sông Hồng, hệ thống năng lượng địa mạch theo như những gì tôi thấy, xét trên độ sâu của các đứt gãy theo quy mô lớn này thì sẽ theo trục Mão- Dậu, Tân- Ất và Tuất- Thìn với lãnh thổ miền Trung Trung quốc và theo trục Càn- Khôn với lãnh thổ phía Tây Nam trung quốc, miền Bắc và Bắc trung bộ Việt Nam. Tôi phân loại hệ mạch này là hệ địa mạch cực sâu, không thể bị con người làm cho thay đổi, và là nguồn địa mạch mẹ phân bố các dòng khí đi lên các cấp bậc mạch nhỏ hơn.
2. Quy mô cấp khu vực (cấp 2)
Về tổng thể, các đứt gãy cấp 2 trong chuyên ngành kiến tạo học thường có vai trò như các đứt gãy tạo bồn, để hình dung dễ hiểu nếu như cả 1 lưu vực sông hồng như 1 cái chậu, phần biên của chậu đến đâu thì chứa được nước đến đó thì các đứt gãy cấp 2 này chính là phần đó. Nó là 1 loạt các đứt gãy tại lưu vực sông Hồng như đứt gãy Sông Hồng, đứt gãy sông Lô, đứt gãy sông Chảy. Những đứt gãy này hoạt động trong 1 giai đoạn địa chất rất dài, làm cho vùng đất đó liên tục bị sụt xuống, sụt đến đâu thì được dòng sông vận chuyển trầm tích (các loại đất đá, vật chất hữu cơ v.v.) nhiều đến đó khiến cho bề dầy trầm tích tại các vùng này tăng cao hơn rất nhiều so với các vùng đất khác. Những đứt gãy này là phổ biến hơn so với các đứt gãy cấp 1 là ranh giới của 1 mảng kiến tạo; hay lộ ra trên bề mặt do đủ lớn để giữ lại dấu vết địa chất đến ngày nay; và hệ thống năng lượng địa mạch theo như những gì tôi thấy, xét trên độ sâu của các đứt gãy theo quy mô lớn này thì sẽ theo trục Mão- Dậu với lãnh thổ miền Trung Trung quốc và theo trục Càn- Khôn với lãnh thổ phía Tây Nam trung quốc, miền Bắc và Bắc trung bộ Việt Nam.
3. Quy mô cấp vùng (cấp 3)
Từ các đứt gãy cấp 2 theo trục Càn- Khôn mà ta có thể thấy tại vùng núi và trung du, sẽ xuất hiện các hệ thống đứt gãy chân chim nhỏ hơn đi theo các hướng khác nhau. Nó thường được hình thành vào các pha sau của giai đoạn Eocen 50 triệu năm trước, ví dụ như giai đoạn Miocen giữa, muộn hoặc Pliocen 5 triệu năm trước. Vì hình thành sau, và gốc đứt gãy thường nằm trên cánh trượt của đứt gãy cấp 2, các loại đứt gãy này thường có xu hướng phá hủy bồn trầm tích, khiến cho tính liên tục của các vật chất trong bồn bị biến dạng, thay đổi, xoay trượt, loại hình này xuất hiện ở hầu khắp vùng đồng bằng sông hòng nhưng đặc trưng nhất là khu vực thanh hóa, nghệ an với các dãy núi bị xoay trượt so với trục Càn- Khôn Tây bắc đông nam.
4. Quy mô cấp 4
Hệ thống các đứt gãy dạng này tiếp tục có biên độ nhỏ hơn so với cấp 3, tiến tới các trạng thái tồn tại ở dạng khe nứt (tức có sự nứt toác ra nhưng không có biên độ dịch trượt của các tầng đất); đây là cấp trung gian giữa hệ thống đứt gãy vĩ mô ở phía trên với hệ thống vi mô ở phía dưới.
5, Quy mô cấp vi mô (sử dụng cho nhà ở)
Các đứt gãy siêu nhỏ tiếp tục xuất hiện với biên đô dịch trượt nhỏ hơn, dần dần chuyển sang các hình thức biến dạng dẻo, các khe nưt không nhìn thấy rõ được nữa nhưng quan trọng là chúng vẫn có các động lực dòng được truyền lên từ các đứt gãy cấp 4, do đó nó vẫn ảnh hưởng đến địa mạch, do các lực này tương tác vào các tầng đất trên cùng như tầng pleistocen độ sâu trung bình 30-70m đến holocen độ sâu 0-10m là các tầng đất bở rời do đó không còn thấy các dấu hiệu của đứt gãy, biên độ dịch trượt nữa. Hệ thống này do đó không thể nhìn thấy được mà phải dựa vào các hệ thống vĩ mô cao hơn ở phần trên để suy luận và hệ thống háo. Đây là hệ thống quan trọng nhất trong tất cả các hệ thống địa mạch, bởi nó ở gần mặt đất nhất và là lực tương tác của địa vào trực tiếp con người, nó giống như các hệ thống trước là rễ và thân, lá cây thì hệ thống này là quả để ăn vậy. Ở quy mô cấp này, bắt đầu 1 chuyên gia phong thủy địa mạch sẽ phân tích và phân bố tính chat địa mạch cấp 5 trong 1 căn nhà, bởi độ rộng của nó theo chu kỳ khoảng vài mét đến vài chục mét phù hợp với diện tích 1 căn nhà trong giai đoạn hiện nay; phân được nơi tập trung năng lượng mạch cao nhất trong nhà theo quy mô từng phòng từ đó chọn ra phòng nào có vai trò quan trọng như phòng khách, phòng thờ, phòng ngủ sẽ ở nơi mạnh nhất, sân vườn, phòng để đồ, phòng vệ sinh ở nơi yếu nhất trong nhà.
6. Quy mô cấp siêu nhỏ
Ở cấp 6 này, nó không phải là phân định mạch nữa mà là phân định tâm mạch, là tinh túy của 1 mạch đã chạy 1 con đường dài từ lòng đất để đến được đây, nó được ví như tủy sống so với xương sống vậy. Đây là cấp độ cao của 1 chuyên gia địa mạch, để xác định được nó rất khó, nhưng nó có vai trò quan trọng đối với các mục đích cũng vi tế không kém, như 1 mạch này chạy tại trung tâm của bát hương tại trung tâm của 1 bàn thờ, hay đặt 1 ngôi mộ với mạch này đi theo đúng hướng rót vào đúng tai của người mất; hay tại nơi trung tâm của tủy sống của 1 người đang tu tập. Những mạch như vậy lại rất dễ bị tổn thương, dễ vô tình bị phá hủy, bị thay đổi vị trí và lực, bị thay đổi từ cực tốt sang cực xấu do bị chặn và do nhiều nguyên nhân khác mà tôi không thể kiểm soát thống kê hết, nhưng đây là những mạch cần nhất mà con người cần bảo vệ. Hay đối nghịch với những mạch tốt lại là mạch xấu có cấp tương tự khi chém vào bàn thờ lại gây ra vô số chuyện khó giải thích, chém vào đầu người lúc ngủ có thể gây mất ngủ, trầm cảm, điên loạn, khó tập trung, không có sức lực sinh khí. v.v. và những mạch như vậy cần có biện pháp để làm giảm tác hại của chúng.
Tất cả các dạng mạch trên về hệ thống đều có liên quan đến nước, có các động lực cấp 2,3 tạo lực khiến đất bị xung yếu và sụt lún thì nước mới tụ về để ra con sông hồng; có các đứt gãy cấp 3,4 thì mới có các khe nứt lớn để nước thấm vào; các đứt gãy cấp 5,6 thì bản chất gần như hòa làm 1 với nước trong môi trường động lực đất bở rời, các lực ở trạng thái biến dạng dẻo và nó làm nên 1 bức tranh toàn cảnh có lớn có nhỏ, có chính có phụ, có trước có sau của 1 nguồn năng lượng vô cùng khổng lồ nhưng cũng thật vi tế của đất. Tôi viết những dòng này bởi tôi cũng khá may mắn khi được học các kiến thức hệ thống về địa chất, cũng như có cơ may trải nghiệm những dòng năng lượng vi tế không nói bằng lời từ đất đổ lên và nó giúp tôi trưởng thành rất nhiều, tôi thấy trân trọng và biết ơn với những trải nghiệm đó.

Không có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.

Bản đồ đứt gãy chính cấp 1,2 phần Nam, Đông Nam và Đông Á

Không có mô tả ảnh.

Mô phỏng thí nghiệm khi mảng lục địa ấn độ va vào mảng châu á khiến vùng đông nam á xoay theo trục tây bắc- đông nam (trục càn khôn) và vùng trung quốc theo trục Ất- Tân, Mão- DậuKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.mặt cắt địa chấn, thể hiện các đứt gãy sâu cấp độ 2 và 3,4 trong trầm tích kainozoi với độ sâu tối đa 16km, mô phỏng các thành tạo đá móng tuổi Mesozoi như jura,trias, creta và các hệ tầng Eocen, oligocen, Miocen sớm giữa muộn, Pliocen và đệ tứ

Không có mô tả ảnh.Mô hình hóa các đường hướng địa động lực theo các thời kỳ 0-15 triệu năm và 15-30 triệu
Không có mô tả ảnh.Mô hình hóa các đường hướng địa động lực theo các thời kỳ 30-40triệu năm và 40-45 tri

Duy Tuấn , Hà Nội 19/2/2019

Kiến trúc cổ đại và công nghệ tàng hình

Tôi được tiếp cận với những kiến thức về kiến trúc cổ đại qua 1 bài viết của 1 kỹ sư quân sự radar người Anh, ông đã nói về các kỹ thuật xây dựng từ vài nghìn năm trước có những tính chất rất giống với cách chúng ta phát triển công nghệ tàng hình cho máy bay quân sự ngày nay. Về mặt nguyên lý, người xưa đã sử dụng các loại đá trộn lẫn vào nhau để xây những tòa tháp cao và đặt chúng tại những vị trí đất có năng lượng cực cao (tây gọi là vortex, các điểm xoáy năng lượng, ta thì gọi là huyệt), các tòa tháp này với chiều cao đã được tính toán trước có chức năng phát tán nguồn năng lượng địa mạch lan ra xa hơn thông thường (sau vài năm thì tôi biết được rằng chiều cao này tương thích với dải tần radio vũ trụ phát ra từ chòm cung thủ Sagittarius A)- mà việc biết được tần số với độ dài bước sóng lại liên quan đến phương trình lamda= v/f sau đó vài nghìn năm lịch sử, về vật liệu để xây dựng lại là sự phối trộn giữa các loại đá có đặc tính thuận từ với các loại đá có tính nghịch từ. Các loại đá có thể cắt thành những khối lớn, 1 số loại lại được đập nhuyễn ra trộn với 1 số chất gắn kết để tạo thành xi măng- tức về nguyên lý vẫn phải tuân theo tính chất từ trường của loại đá.
Khi tiếp cận đến giai đoạn này, tôi nhận thấy đây là 1 lối phong thủy hệ thiên cực kỳ cổ đại và nó đã có hệ thống từ lâu nhưng vẫn trong vòng bí mật (dòng địa chỉ quan tâm đến địa mạch, dòng thiên theo lối này lại là cách xây dựng các công trình sao cho thu được tốt nhất năng lượng từ cả hệ địa và hệ thiên), 1 số câu hỏi từ đó khiến tôi phải suy nghĩ và tìm lời giả đáp:
1. Bản chất các bộ phận cấu thành tòa tháp- tương ứng với tất cả các dòng kiến trúc cổ đại đến từ Bắc Âu đến Tây Tạng, Trung Đông đến Đông Á v.v. đều xây dựng các tòa tháp tại các vị trí đối với họ là linh thiêng, thì các bộ phận riêng biệt của tòa tháp sẽ phản ứng thế nào với các dạng sóng điện từ trường đến từ các chòm sao (thiên) và từ địa mạch trái đất (địa). Ví dụ tháp bắc âu liên quan đến chòm sagittarius A?
2. Làm thế nào để chế tạo ra vật liệu có các đặc trưng tương tác với sóng điện từ như sau: Phản xạ sóng điện từ, Hấp thụ sóng điện từ, tán xạ sóng điện từ, tập trung sóng điện từ trong vật liệu?
3. Cách thiết kế kiến trúc như thế nào để tạo ra sự phản xạ hay hấp thụ sóng hiệu quả nhất?
4. Các đơn vị cổ đại từ các nền văn minh vì sao lấy kích thước của hoàng gia cổ đại ai cập làm đơn vị chuẩn?
Phải mất vài năm loay hoay đi tìm lời giải đáp, tôi gần như không tìm ra lời giải đáp, cho đến khi vô tình đọc về công nghệ tàng hình máy bay trong khoa học quân sự thì có thể cho tôi vài nguyên lý cốt lõi. Về mặt nguyên lý, máy bay muốn tàng hình thì các chùm sóng radar phát ra từ hệ thống phòng không khi tương tác vào máy bay phải bị hấp thụ càng nhiều càng tốt, bởi nếu phản xạ thì hệ thống phòng không sẽ phát hiện ra được máy bay đó, do đó vật liệu được phủ bên ngoài máy bay sẽ là loại vật liệu hấp thụ sóng điện từ chứ không thể là vật liệu phản xạ sóng điện từ được.
Bỏ qua các công nghệ phát radar chủ động với cường độ bằng nhưng ngược pha với hệ thống phòng không để triệt sóng, thiết kế sao cho ít góc phản xạ nhất có thể để giảm độ phản xạ thì công nghệ tàng hình mà tôi có thể tiếp cận được là: vật liệu hấp thụ sóng radar và kiến trúc để hấp thụ sóng radar. Sóng điện từ do có 2 thành phần là phần điện trường và phần từ trường do đó trong loại vật liệu hấp thụ sóng này sẽ gồm 2 loại vật liệu chính, 1 là loại dẫn điện cao 2 là loại có độ thẩm từ tốt; để nâng cao được hiệu suất hấp phụ thì tỉ lệ giữa 2 loại vật liệu này sẽ phải được tính toán- 2 loại vật liệu chính lại được phối trộn với 1 số các vật liệu phụ khác để làm tăng đặc tính hấp thụ sóng gọi chung là chất trộn- được bao bọc trong 1 loại vật liệu khác không dẫn điện gọi là chất mang, thường được làm từ nhựa có đặc tính chịu nhiệt, cơ học cao.
Lớp vật liệu trên máy bay này, hay lớp tường bao bọc các công trình cổ đại có năng lượng cao, tôi đều nhận thấy có 1 tính chất chung: Đó là chuyển năng lượng của sóng điện từ thành nhiệt, với hiệu ứng của thời đại ngày nay thì mạnh hơn nhiều và mang tính nhân tạo- khi phải thiết kế hệ thống quạt làm mát trong máy bay quân sự vì sóng radar từ hệ thống phòng không đối phương tạo ra nguồn phát sóng rất mạnh, các vật liệu hấp thụ sóng vì chuyển hóa quá nhiều sóng điện từ mà sinh ra nhiệt năng lớn. Còn với các công trình cổ đại là thu khí một cách tự nhiên, đến bao nhiêu nhận bấy nhiêu, hay có thể gọi là tạo ra nguồn sinh khí, dương khí có nhiệt tính 1 cách tự nhiên từ việc hiểu sự vận hành của trái đất và vũ trụ- tôi coi đây cũng chính là 1 phần bản chất của phong thủy , khi chúng ta tính toán tiếp sự tương tác của các trường sóng điện từ với đối tượng là nước và không khí.

Tháp bắc âu ailen, cộng hưởng với chòm sagittarius A

Trong hình ảnh có thể có: bầu trời, đám mây, thực vật, cây, cỏ, ngoài trời và thiên nhiên

Chòm sagittarius- trung tâm của dải ngân hà- nguồn phát chính sóng điện từ tần số radio tới trái đấtKhông có mô tả ảnh.

Tính chất phản xạ radar dựa trên hình dạng của máy bay quân sự- liên kết đến bài Radar các bạn sẽ nhận thấy tầm quan trọng của việc chọn vật liệu- để ứng dụng như giải pháp chấn trạch trong phong thủy

Trong hình ảnh có thể có: văn bản cho biết 'CORNER DIFFRACTION EDGE SPECULAR DIFFRACTION SURFACE SURFA RETURN CREEPING INTERACTION WAVE ECHO TIP IP RETURN DIFFRACTION CAVITY RETURN TRAVELING WAVE CURVATURE ECHO ECHO DISCONTINUITY RETURN GAP GAP OR SEAM ECHO'

hệ thống vật liệu tạo phản xạ lặp nhiều lần nhằm tăng hiệu suất hấp thụ sóng điện từ- với hình dạng hiệu quả nhất là kim tự tháp có góc dốc lớn

Trong hình ảnh có thể có: trong nhà

Phản xạ lặp ngẫu nhiên trong ma trận được sắp xếp từ vật liệu trộn nhằm hấp thụ, giảm dần cường độ sóng điện từ.
incident wave: sóng đến, reflector wave: sóng phản xạ; resin matrix: khối nhựa

Trong hình ảnh có thể có: văn bản cho biết 'incident wave reflector wave I ACNTs I resin matrix Metal substrate outer diameter single graphene sheet tube outer-wall incident wave reflector wave inner diameter'

Trong hình ảnh có thể có: đám mây, bầu trời và ngoài trời

Radar- bộ môn quan trọng trong phong thủy

Trong lĩnh vực phong thủy địa mạch trên thế giới, đã có rất nhiều chuyên gia xuất phát điểm là chuyên gia về radar, đó là 1 trong những điểm tôi rất thắc mắc và sau này khi đi sâu vào lĩnh vực radar, cái thắc mắc từ lâu của tôi đã có lời giải đáp. Hóa ra 2 lĩnh vực tưởng chừng không ăn nhập gì với nhau là phong thủy địa mạch với nghiên cứu sóng radar lại trùng nhau rất nhiều điểm. Rất nhiều nguyên lý hiển thị về sự phân bố của các dạng địa mạch trong lòng đất, về cách khuếch đại năng lượng, về cách hóa giải, hấp thụ hay dẫn sóng năng lượng- kể cả năng lượng như chúng ta đã biết hay các dạng năng lượng sinh học (cái phần nhiều chúng ta nghi ngờ), hay để giải đáp thắc mắc vì sao nước lại đóng vai trò quan trọng trong phong thủy đến thế?, hay vì sao địa hình cao thấp lại quyết định đến năng lượng địa mạch? đều có 1 điểm chung nào đó; điểm chung đó được gọi là: sự tương tác của sóng điện từ trường lên các loại vật chất (với tính chất về điện và từ) thể hiện qua các phản ứng: hấp thụ, triệt tiêu, phản xạ, truyền dẫn.
Nhiều người hỏi cơ chế của những cục mà tôi đã làm để hóa giải các dòng bức xạ hỗn độn từ lòng đất- có thể gọi là tia đất, thì tôi cũng chẳng giấu nữa, 30% cơ chế và nguyên lý để tạo ra nó nằm trong trích đoạn tài liệu dưới đây- các nguyên lý chặn và hấp thụ sóng radar áp dụng cho máy bay tàng hình, khi nắm chắc được nguyên lý thì ta sẽ tự tìm ra được các kỹ thuật tương tác với mạch đất.

Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Không có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bảnKhông có mô tả ảnh.Trong hình ảnh có thể có: văn bảnTrong hình ảnh có thể có: văn bản

Môi trường và phong thủy địa mạch

Sự phá hủy môi trường sống khiến chất lượng cuộc sống của chúng ta ngày càng suy giảm mà đến hiện này thì ngày càng nhiều người nhận ra hậu quả của nó. Tôi nhận thấy môi trường bị ô nhiễm không những ảnh hưởng đến những chỉ số có thể đo đếm như ô nhiễm nước, ô nhiễm đất, hay không khí mà nó còn ảnh hưởng đến những giá trị không thể đo đếm được khác như về phong thủy, về năng lượng của các mạch đất. Tuy nhiên, tại bài mở đầu này, tôi chỉ nói hết sức tóm tắt về cơ chế của các thông số có thể đo đạc được, 1 trong những cơ chế quan trọng đầu tiên phải nhắc đến là thạch tín (asen) bởi nó không màu, không mùi không vị nhưng là chất kịch độc, được lan truyền bởi chất liệu không thể thiếu là môi trường nước và tiếp theo là nó là chất độc bị phân tán mạnh theo sự khai thác nước, khoan giếng của mọi người.

Ô nhiễm arsen bắt đầu nhen nhóm nghiên cứu từ năm 1983 khi mà tại bang Tây Bengal của Ấn Độ người ta đã phát hiện trên 200.000 ca nhiễm độc và trên một triệu người đang nằm trong vùng bị phơi nhiễm. Tại Bangladesh, một quốc gia đứng đầu về số lượng giếng khoan bơm tay của khu vực Châu Á, từ năm 1993 sự nhiễm độc nước giếng do asen càng được lớn và tới nay đã có khoảng 35 đến 77 triệu người có nguy cơ bị nhiễm độc. Tổ chức y tế thế giới mô tả sự kiện này là “một thảm họa môi trường lớn nhất từ trước tới nay”. Với đặc điểm địa chất rất giống với vùng đồng bằng Bangladesh, đồng bằng sông hồng cũng nằm trong khu vực bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm asen do tính chất tự nhiên có nguồn gốc từ đá gốc vùng Himalaya, nơi các trầm tích có chứa asen tự nhiên được vận chuyển xuống các lưu vực sông ở hạ lưu đông dân cư bên dưới.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng 21,5% dân số Việt Nam (tương đương với 17,2 triệu người) đang sử dụng nguồn nước ăn từ nước giếng khoan, đây là nguồn nước dễ bị nhiễm asen.
Có thể tóm tắt rằng Asen có 2 dạng tồn tại chủ yếu là ở vùng núi và vùng đồng bằng.

1. Dạng tồn tại của Asen ở vùng núi
Tại vùng núi, asen nằm trong đá và các mỏ quặng nhiệt dịch mà chủ yếu dưới dạng các khoáng vật như: arsenopyrit (FeAsS), chu sa, thần sa, hùng hoàng v.v. Như ở nước ta, các mỏ quặng nhiệt dịch đặc trưng của vùng Tây Bắc cũng là nguồn phát tán Asen. Theo thời gian, các hoạt động phong hóa diễn ra khiến các đá gốc bị phong hóa thành đất, một phần asen bị rửa lũa và chảy xuống theo dòng nước để đến hạ lưu nhưng vẫn giữ lại phần lớn Asen.
Những nguyên nhân gây tăng ô nhiễm asen:
– xáo trộn các tầng đất do hoạt động xây dựng, khai thác quặng, khoan giếng tại vùng đất có chứa nhiều khoáng vật arsernopyrit khiến cho arsernopyrite bị oxy hóa; asen bị phát tán mạnh vào môi trường.
– Thời tiết trong giai đoạn nắng to sau đó mưa lớn cũng khiến xuất hiện khí có thành phần là hợp chất asen và các dạng khí khác mà dân gian gọi là chướng khí, đặc biệt khi vùng đó có hệ thống đứt gãy dày đặc và gần sát bề mặt đất. Các khu vực dân cư nằm trên các đới khoáng hóa quặng nhiệt dịch có thể bị ảnh hưởng nhiều hơn khi trong giai đoạn thời tiết này.

So sánh hướng vận chuyển trầm tích của Bangladesh và Bắc Việt NamKhông có mô tả ảnh.

2. Dạng tồn tại của Asen ở vùng đồng bằng
Tại vùng đồng bằng, hệ thống nước ngầm và đặc tính của loại đất chiếm 1 vai trò quan trọng. Hệ thống nước ngầm gồm tầng chứa nước Holocen (tầng trên) và tầng chứa nước Pleistocen (tầng dưới).
Thành phần thạch học chủ yếu của tầng chứa nước này là cát, cát pha, sét pha với độ sâu phân bố từ khoảng 16 – 25m chiều dày thay đổi từ 0 -15,5m trung bình 14,0m. Mực nước tĩnh thay đổi từ 0,5 – 4m.
Tầng chứa nước Pleistocen (tầng dưới) có thành phần thạch học chủ yếu của tầng này gồm cát, sạn, cuội sỏi với bề dày thay đổi trong phạm vi khá lớn từ 9,97 – 30,8m ở phía bắc đến 35 – 45m, có nơi trên 60m ở phía Nam đồng bằng sông hồng.
Tầng chứa nước Holocen(tầng trên) đo được thường có độ ô nhiễm cao hơn so với tầng chứa nước Pleistocen sạch hơn ở dưới.
Những nguyên nhân gây tăng độ ô nhiễm Asen tại vùng đồng bằng:
– Việc khai thác nước ngầm quá mức khiến mực nước ngầm bị hạ, khiến cho môi trường oxy – môi trường khử vốn tồn tại hàng nghìn năm bị thay đổi quá đột ngột sẽ làm tăng lượng Asen bị phát tán vào nước ngầm.
– Khoan quá nhiều giếng khoan khiến cho lượng nước bị nhiễm asen nặng thấm vào tầng nước sạch Pleistocen bên dưới; sau khi giếng không sử dụng nữa lại không có biện pháp lấp giếng đúng tiêu chuẩn nên nước từ tầng nước bẩn phía trên mãi mãi ngấm xuống dưới. Đôi khi tôi thấy nhiều hộ dân lấp giếng chỉ bằng cách làm đúng cái nắp bê tông đậy lại miệng giếng.
– chỉ trừ 1 số vùng đất đặc biệt như vùng đá ong có hàm lượng sắt cao, nhôm ít thì hiện tượng ô nhiễm lan vào các tầng nước sạch giảm bớt.
– Than bùn giàu vật chất hữu cơ là các vật liệu hấp phụ asen và các kim loại nặng khác, khi khai thác, cày xới lên thì nó phát tán trả lại môi trường.

Hướng vận chuyển trầm tích từ các dãy núi cao Himalaya đến Bangladesh

Không có mô tả ảnh.

3. Cơ chế tạo thành và lắng đọng Asen
– Arsenopyrit là khoáng vật sulfur có As và Fe: FeAsS khi phơi lộ ra không khí ẩm, nó nhanh chóng bị oxy hoá tạo thành hợp chất arsenat:
– 4FeAsS + 13O2 + 6H2O  4 FeSO4 + 4H3SO4
– Arsenat trong môi trường tự nhiên dễ dàng chuyển hoá thành H2AsO4-2 và HAsO3- di chuyển trong nước, hấp thụ vào trong đất, trong bùn và thực vật.

Hình minh họa về các đới đứt gãy cắt qua vùng đá có quặng arsenopyrite với khu dân cưKhông có mô tả ảnh.

4. Cách để giảm ảnh hưởng do Asen gây ra
– Ý thức trong bảo vệ tài nguyên nước cần phải được thay đổi, chúng ta dùng nước cần phải ý thức được những hệ quả của việc dùng lãng phí. Với những công trình khoan giếng phục vụ trong sinh hoạt, chúng ta cần tuân thủ đúng các quy tắc lấp giếng để đảm bảo không để nước tầng trên chảy xuống tầng dưới.
– Ý thức trong vấn đề bảo vệ tài nguyên đất, quặng; khi khai thác tức chúng ta làm xáo trộn môi trường của đất, quặng, từ môi trường khử (nằm sâu trong lòng đất) thành môi trường oxy hóa (lộ ra không khí) do đó chí ít khai thác xong cũng cần phủ lại thảm thực vật để trả lại môi trường khử cho môi trường đất.
– Phần lớn các nhà máy nước có cơ chế lọc Asen hiệu quả, gồm quy trình dẫn nước bề mặt, nước dưới đất qua dàn phun và lọc qua bể lọc gồm sỏi, cát thông thường, do quá trình khử sắt trong nước cũng khử phần lớn Asen trong nước nên người dân ở những vùng dùng nước giếng khoan nên chuyển sang dùng nước máy để ăn uống.
– 1 góc nhìn khá thú vị rằng khi thống kê, một số tác giả nhận định rằng đặc tính di truyền của người Việt có cơ chế chống chịu tốt hơn với nồng độ Asen so với các dân tộc khác ở Bangladesh có lẽ là liên quan đến lịch sử lâu đời sống trong môi trường rừng nhiệt đới.
——————————–
– Bàn thêm về cơ chế, việc chúng ta đào xới, khoan giếng làm thay đổi môi trường oxy hóa- khử của đất cũng giống như trong dân gian gọi là động mạch đất; nó có gây ra những biến động về mặt năng lượng với mạch đất đó với nguyên nhân cơ học (thay đổi trật tự của các lớp đất, cái dễ nhìn nhận, dễ phát hiện) và nguyên nhân hóa học (nước bị thay đổi tính chất, cái khó phát hiện ra) do đó nó để lại hậu quả ngắn hạn và dài hạn không thể suy đoán được về phong thủy 1 ngôi nhà. Ví dụ: Nhà tôi có thể không làm gì cả, nhưng 1 nhà khác gần đó động chạm đến 1 mạch nước mà đi qua nhà tôi thì tôi vẫn bị ảnh hưởng. Với 1 quy mô lớn hơn, làng xóm ở vùng thượng lưu phá đất thì ảnh hưởng đến làng bên cạnh ở vùng hạ lưu. Vùng núi khai thác mỏ nhiều nhưng không hoàn thổ thì ảnh hưởng đến vùng đồng bằng đông dân cư bên dưới. v.v.
——————–
Tài liệu tham khảo:
1. NGUY CƠ Ô NHIỄM ARSEN TRONG MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA. ĐẶNG VĂN CAN, ĐỖ TRỌNG SỰ và nnk
2. PGS. TS Trần Hồng Côn (Khoa Hóa – Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội)
3. Cơ chế làm chậm sự di chuyển của asen qua tầng chứa nước sâu Pleistocene” gồm Alexander van Geen, Benjamın C. Bostick, Phạm Thị Kim Trang và nnk

 

Hệ thống tọa độ thiên văn và ứng dụng trong địa mạch

Hiện nay, trong thiên văn chủ yếu sử dụng 2 hệ tọa độ phổ biến là hệ tọa độ xích đạo và hoàng đạo.

1. Hệ tọa độ hoàng đạo là một hệ tọa độ thiên văn sử dụng mặt phẳng hoàng đạo làm mặt phẳng tham chiếu.
Mặt phẳng hoàng đạo là mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất khi quay quanh Mặt Trời. Hình chiếu của mặt phẳng quỹ đạo Trái Đất lên thiên cầu vẽ thành đường hoàng đạo.Hệ tọa độ này thuận tiện khi xác định vị trí của các hành tinh và các thiên thể trong Hệ Mặt Trời và chia được 12 cung hoàng đạo mà thiên văn hay chiêm tinh đều sử dụng phổ biến.
2. Hệ tọa độ xích đạo là hệ tọa độ thiên văn được sử dụng nhiều cho các quan sát bầu trời từ Trái Đất.
Nó là hệ tọa độ gắn bó chặt chẽ với hệ tọa độ địa lý, vì ở đây người ta sử dụng chung một mặt phẳng quy chiếu và chung các cực. Hình chiếu của xích đạo Trái Đất lên thiên cầu được gọi là thiên xích đạo hay xích đạo trời. Tương tự, chiếu các cực địa lý lên thiên cầu ta sẽ có thiên cực bắc và thiên cực nam.

Không có mô tả ảnh.

Tuy nhiên, 2 hệ tọa độ này rất khó ứng dụng vào 1 môn đặc thù là phong thủy, nơi cần phải làm rõ được vị trí của 1 hành tinh trong mặt trời trên bầu trời khi chiếu xuống đến mặt đất thì nằm tại hướng chính xác đến độ/ phút là vị trí nào, do đó có 1 hệ tọa độ ít phổ biến hơn nhiều là hệ tọa độ chân trời đã được sử dụng đầu tiên ghi chép được là 3000 năm trước, và gần như bị lãng quên trong vài trăm năm gần đây tại châu âu khi hệ tọa độ 12 cung hoàng đạo quá tiện lợi trong tính toán thiên văn. Hệ tọa độ chân trời, do độ khó và phức tạp khi chuyển đổi từ hệ tọa độ xích đạo và hoàng đạo, mãi đến khoảng 30 năm gần đây khí phần mêm máy tính tính thay mới trở lại phổ biến để hình thành lại cách tính thời cổ đại về ý nghĩa của năng lượng các hành tinh chiếu theo 360 độ phương hướng nằm ngang.
3. Hệ tọa độ chân trời ứng dụng trong phong thủy phương đông và phong thủy địa mạch
Ứng dụng của hệ tọa độ này là rất khả quan khi tính toán được, khi thiếp lập 1 lá số của 1 người, nó là vị trí các hành tinh theo hệ tọa độ hoàng đạo, do đó khi chuyển đổi xong từ hệ hoàng đạo sang hệ chân trời. Ta có thể biết vị trí những hành tinh tương đối tốt (trong lá số) với người đó nằm tại chính xác tại hướng nào, và những hành tinh không tốt nằm tại hướng nào. Từ đó, ứng dụng trong nội khí căn nhà, khi vẽ hướng các hành tinh trong 1 căn nhà, ta sẽ tập trung những nơi quan trọng trong nhà như bàn thờ tại các nơi có sao Jupiter mộc tinh, Mo mặt trăng (mặt trăng mạnh, ở vị trí tốt trong lá số); những nơi để học tập và làm việc sẽ theo sao Me thủy tinh (không bị sao xấu chiếu aspect) hoặc Ju mộc tinh; đặc biệt nếu như các hành tinh nằm tại các vị trí mạnh và thuận lợi như dig bala, nằm tại cung chủ tinh hay vượng, tướng; nằm tại 4 hướng tứ chính cardinal Nam, Bắc, Đông, Tây v.v. Nên Tránh đặt những vị trí quan trọng tại nơi có sao xấu chiếu qua như Saturn thổ tinh, Trục Rahu la hầu – Ketu kế đô và Mar hỏa tinh.
Với cách cục ngoài nhà, có thể xác định hướng và vị trí của địa mạch đi vào nhà này theo trục nào ứng với các thành viên trong nhà để tìm cách ứng xử. Ví dụ mạch hướng nhâm đổ về có thể kích hoạt các sao có trục Bắc- Nam với 1 người có lá số mà các hành tinh xấu, đặc biệt tù tử nằm ở vị trí Bắc- Nam của lá số. Tương tự cách tính như vậy với vị trí thủy, công trình lớn trong bán kính 100m v.v. Hoặc, với 1 người trong giai đoạn nào đó cần phải đi đến 1 vùng đất khác để lấy lại cân bằng thì nên đi theo trục nào v.v.

Không có mô tả ảnh.

Bản đồ đường chiếu của các sao lên 1 vùng đất theo hệ tọa độ chân trời cho 1 cá nhân.

Các bạn có thể tham khảo về hệ tọa độ chân trời bằng tiếng anh tại đây:

Horizontal coordinate system

Horizontal coordinates use a celestial sphere centered on the observer. Azimuth is measured eastward from the north point (sometimes from the south point) of the horizon; altitude is the angle above the horizon.
The horizontal coordinate system, also known as topocentric coordinate system, is a celestial coordinate system that uses the observer’s local horizon as the fundamental plane. Coordinates of an object in the sky are expressed in terms of altitude (or elevation) angle and azimuth.

Definition
This celestial coordinate system divides the sky into two hemispheres: the upper hemisphere, where objects above the horizon are visible, and the lower hemisphere, where objects below the horizon cannot be seen, since the Earth obstructs views of them. The great circle separating the hemispheres is called the celestial horizon, which is defined as the great circle on the celestial sphere whose plane is normal to the local gravity vector.[1] In practice, the horizon can be defined as the plane tangent to a still liquid surface, such as a pool of mercury.[2] The pole of the upper hemisphere is called the zenith. The pole of the lower hemisphere is called the nadir.[3]

The following are two independent horizontal angular coordinates:

Altitude (alt.), sometimes referred to as elevation (el.), is the angle between the object and the observer’s local horizon. For visible objects, it is an angle between 0° and 90°.
Alternatively, zenith distance may be used instead of altitude. The zenith distance is the complement of altitude, so that the sum of the altitude and the zenith distance is 90°.
Azimuth (az.) is the angle of the object around the horizon, usually measured from true north and increasing eastward. Exceptions are, for example, ESO’s FITS convention where it is measured from the south and increasing westward, or the FITS convention of the Sloan Digital Sky Survey where it is measured from the south and increasing eastward.
The horizontal coordinate system is sometimes called other names, such as the az/el system,[4] the alt/az system, or the alt-azimuth system, from the name of the mount used for telescopes, whose two axes follow altitude and azimuth.[5]

General observations

A sunset over the horizon of the Mojave Desert, California, USA
The horizontal coordinate system is fixed to a location on Earth, not the stars. Therefore, the altitude and azimuth of an object in the sky changes with time, as the object appears to drift across the sky with Earth’s rotation. In addition, since the horizontal system is defined by the observer’s local horizon, the same object viewed from different locations on Earth at the same time will have different values of altitude and azimuth.

Horizontal coordinates are very useful for determining the rise and set times of an object in the sky. When an object’s altitude is 0°, it is on the horizon. If at that moment its altitude is increasing, it is rising, but if its altitude is decreasing, it is setting. However, all objects on the celestial sphere are subject to diurnal motion, which always appears to be westward.

A northern observer can determine whether altitude is increasing or decreasing by instead considering the azimuth of the celestial object:

If the azimuth is between 0° and 180° (north–east–south), the object is rising.
If the azimuth is between 180° and 360° (south–west–north), the object is setting.
There are the following special cases:

All directions are south when viewed from the North Pole, and all directions are north when viewed from the South Pole, so the azimuth is undefined in both locations. When viewed from either pole, a star (or any object with fixed equatorial coordinates) has constant altitude and thus never rises or sets. The Sun, Moon, and planets can rise or set over the span of a year when viewed from the poles because their declinations are constantly changing.
When viewed from the Equator, objects on the celestial poles stay at fixed points on the horizon.
Note that the above considerations are strictly speaking true for the geometric horizon only. That is, the horizon as it would appear for an observer at sea level on a perfectly smooth Earth without an atmosphere. In practice, the apparent horizon has a slight negative altitude due to the curvature of Earth, the value of which gets more negative as the observer ascends higher above sea level. In addition, atmospheric refraction causes celestial objects very close to the horizon to appear about half a degree higher than they would if there were no atmosphere.

 

Cơ sở toán học của hà đồ và lạc thư

Khi tìm hiểu sự khác nhau về số học giữa hà đồ và lạc thư, tôi nhận ra rằng chúng có liên hệ toán học với nhau tức cùng 1 gốc gác, nhưng do lạc thư có giới hạn bởi 9 con số nên phải dùng 1 cách tính toán khác để tính; trong khi hà đồ có giới hạn là 10 con số nên lại phải dùng cách tính khác.
Cái khác ở đây, nó chính là modulus.
Hiểu rằng 1 tập hợp các số liên tục trong chuỗi số thập phân khi modulus tức chia hết cho 1 số nào đó thì sẽ ra 1 tập hợp các số khác và tập hợp số này được đại diện bởi 1 là hàm chuỗi số F(x) tạo ra nó và 2 là modulus của nó.
Và:
1. Hà đồ (có 10 số) thì mod 9
2. Lạc thư (có 9 số) thì lại mod 10
Còn F(x) là 1 hình ảnh tôi post trên face của tôi lâu lắm rồi ko ai để ý. Từ Fx này với cách mod sẽ ra được đồ hình của lạc thư và hà đồ.
2 câu trên là phát hiện sau ko biết bao nhiêu năm tháng chỉ có ngồi nghĩ của tôi để ra mỗi 2 câu này, nhưng nó lại chứng minh cho sự phân bố các chuỗi số 1 cách chắc chắn, logic ko thể sai của hà đồ và lạc thư, tôi đã định giấu nó đến cuối đời cũng không nói, nhưng cuối cùng thì về mặt học thuật, có lẽ tôi nên nói bởi hà đồ và lạc thư là gốc gác căn bản nhất của mọi kiến thức về âm dương ngũ hành ứng dụng cho mọi lĩnh vực từ đông y đến khí, đến phong thủy- là những môn tôi coi là những công cụ để con người sử dụng cho hành trình giác ngộ của mỗi người.
Khi mod 9 thì sao và khi mod 10 thì sao, khi mod 9; các số 123456789 sẽ chạy chéo nhau; hay chính xác tạo ra hình số 8; về hình học thì nó gọi là hình torus(hình xuyến).
Còn khi mod 10 thì sao, nó tạo vòng xoáy spiral; 2 hình xuyến và xoáy này đều là cực kỳ quan trọng và có mặt phổ biến trong tự nhiên; truyền thuyết trung hoa vẫn là truyền thuyết; nhưng ẩn ý của nó:
1. hà đồ trên lưng ngựa là 1 động vật có chiều cao hơn so với bề ngang mô tả hình torus tức mặt cắt thẳng đứng tức mối quan hệ của thiên địa, miêu tả lực của trên dưới.
2. Lạc thư: các cụ ví von là con rùa, nhưng con rùa thì bề ngang lớn hơn chiều cao, nó tượng trưng cho việc miêu tả 4 phương 8 hướng 360 độ của không gian mặt phẳng nằm ngang.
Hãy tưởng tượng 1 cái chun có hình tròn, khi ta xoắn 1 đầu vào thì ra số 8; đầu ta xoắn thì bị đảo, đầu không xoắn thì giữ nguyên; thì đầu không xoắn là cặp số 16 và 38; trong khi đầu xoắn sẽ là 27 và 49.
Cho nên: “thủy mộc thì giữ nguyên, mà kim hỏa thì đảo chỗ”
cái kim hỏa của hà đồ miêu tả cho cái chun bị xoắn sẽ khác cái kim hỏa cho cái chun bình thường của lạc thư. Kể cả lạc thư từ ma phương 3×3 hay các ma phương bậc lẻ cấp cao hơn cũng thế thôi. ở hà đồ 27 thì đối nghịch với 16 còn ở lạc thư 49 mới là cái đối nghịch với 16.
Để ý về ma phương 3×3 lạc thư, tổng số hàng dọc, ngang và chéo bằng 15 là điều ai cũng biết; nhưng nó còn luật lệ của hàng chéo nữa; dân gian gọi là trục thiên môn địa hộ và trục còn lại là trục quỷ môn; 2 trục này áp dụng cho toàn bộ các ma phương cấp cao hơn lạc thư. 1 trong những quy luật đó là quy luật tam giác vuông của trục chéo thiên môn địa hộ. Nhìn trong lạc thư có số 3,4,5. ta thấy: 3 ^2+ 4^2 = 5^2 đó là luật của thiên môn địa hộ, Với trục còn lại là trục quỷ môn, nó là trục mà khi chỉ sử dụng các con số trong hệ thập phân nó sẽ ra số 2,5,8 nhưng khi chúng ta khai triển theo tịnh tiến cơ số 1 các số tự nhiên trong các ma phương >3 như 9×9; sau đó mod 10 ứng theo câu “lạc thư dùng mod 10” thì ra toàn ra số 5 cả, 1 loạt chữ số chỉ có số 5. Ứng dụng của 2 đường chéo này là nó fix chặt chẽ tất cả các con số theo 1 luật về số học không thể sai khác được, đường lường thiên xích chỉ là cái chúng ta nhìn thấy về đường đi của các con số, nó không phải số học, nó là hình học. Đường để tạo ra số học là phải chứng minh được và nó là 2 đường chéo. Ví dụ về quy luật tam giác vuông này ở ma phương 9×9, 40^2 + 9^2= 41^2.

Vậy, khi chứng minh được đồ hình lạc thư và hà đồ, thì một loạt các dụng pháp sau đó sẽ nở ra từ 2 hình trên, đầu tiên là tạo ra cơ sở số học của 24 sơn trong vòng tròn 360 độ chia ra 24 vùng có kích thước bằng nhau. Nhờ hà đồ ta tìm ra được luật của thiên nguyên long 147, nhân nguyên long 369, địa nguyên long 258.
Nhờ lạc thư ta tìm ra được tính âm dương của 24 sơn giống trong các môn huyền không hay dùng.
Trong 24 sơn này, có 2 luật để chúng nhóm thành 2 bộ khác nhau; sơn nhâm phối với sơn tí, và 1 loạt sau đó khi dùng thiên can phối địa chi thì tạo ra song sơn ngũ hành trong đó các sơn địa chi là chính, các sơn đi cạnh nó phà phụ,
cũng gọi là giang tây địa quái trong tam ban quái; luật số học ra toàn số 5 và 10 khi lấy số mã hóa của mỗi sơn trên cộng lại với nhau.
Luật thứ 2 là dùng sơn tí phối với quý tức địa chi phối với thiên can, thì ra luật của giang đông thiên quái.
Lại trong 24 sơn, có 12 sơn gọi theo 12 con giáp bởi nó có luật tam hợp và các luật khác của 12 con giáp, nếu dùng bằng số ví dụ như thân tí thìn; hợi mão mùi, dần ngọ tuất, tị dậu sửu tạo ra tứ đại cục, và từ đó là vòng trường sinh ra đời.
Luật số học của 24 sơn, ngoài pháp của người trung hoa, còn là pháp của người thuộc nền văn minh lưỡng hà và ấn độ, cả người do thái lẫn người châu âu; nó thể hiện trong việc mà tôi hay làm xưa nay là lập trận cân bằng địa mạch. Toàn dùng số 6, hay 12, hoặc là 9; bởi nó có luật như vậy, khi lập như vậy nó phối cả khí của mạch đất với lý khí toán học, nó ra lực mạnh hơn với vật liệu ít hơn, quan niệm của tôi là vậy; vì sao người cổ đại châu âu khi một số trận đồ của họ không đặt viên nào vào giữa; hay gọi là vô tâm trận, bởi có cơn bão nào mà ở giữa nó có gió đâu, bão xoáy ở 4 phương trừ tâm của nó; đôi khi khí của mạch đất lại cũng như vậy, nó tuân theo luật của lạc thư, sự cân bằng được hay không ăn nhau ở cái điểm xoáy giữa đó.
Tất cả những điều viết bên dưới về tam ban, thiên quái địa quái, giang đông giang tây giang nam bắc, âm dương và tính thiên địa nhân nguyên long của 24 sơn, song sơn ngũ hành, tứ đại cục đều sẽ sai hết nếu như hà đồ và lạc thư bị sai, quan điểm học thuật của tôi là như vậy. Hà đồ và lạc thư là 2 góc chiếu của 1 đối tượng, vì là 2 góc chiếu khác nhau nên chúng phải có sự khác nhau, nếu không đã bị hòa làm 1 rồi.

1.Hà đồ

Không có mô tả ảnh.

2. Lạc thư

Không có mô tả ảnh.

3. Ma phương 9×9, sự mở rộng của lạc thư dựa trên cùng 1 thuật toán (đường lường thiên xích)Không có mô tả ảnh.