Những bánh xe thiên cơ(tam nguyên cửu vận và nhị nguyên bát vận)

Trước đây, khi tìm hiểu về bản chất của tam nguyên cửu vận, thì điều tối quan trọng là cần phải xác minh được tính đúng đắn của lục thập hoa giáp. Và cách dễ dàng nhất là tìm ra quy luật vận hành của năm đầu tiên của lục thập hoa giáp là giáp tý, tôi vẫn hay gọi là người cầm đèn, dẫn 1 đàn theo sau gồm 59 hoa giáp còn lại. Giống như cách nghĩ của người sumerian, 60 là số chia hết được cho rất nhiều số: 2,3,6,10,12,15, 20, v.v. bản chất của lục thập vì có phép chia hết đó mà chia ra cái thì là tam hợp, cái là tứ xung v.v. tôi đã chứng minh được chúng từ khá lâu, từ khâu đầu là quan sát thiên văn, rồi khâu tiếp theo là lập các phương trình liên kết, và khâu cuối là code tận gốc vấn đề và tạo thành 1 modul tự nó vận hành; và để bảng giá cho công trình như vậy cũng khá cao, khoảng vài chục tỷ ở phần shop, cũng là để chẳng muốn bán nó cho bất cứ ai với giá cao như vậy. Nó là kiến thức bất khả bán. Tuy vậy chưa phải là hết, tam nguyên cửu vận muốn thật sự hoàn thiện cần 2 bánh xe thiên cơ lớn hơn chi phối con đường vận hành của thiên can địa chi, khi quan sát bầu trời trong nhiều năm, tôi nhận thấy cần phải có 2 vòng: 17 và 27 cho mỗi 60 năm để tạo ra vòng kiểm soát lớn cuối cùng khiến cho mọi hành vi biến đổi của bản chất thiên văn của lục thập hoa giáp sẽ đều nằm trong nó. Tôi nghĩ khi đến bước này cũng là bước khó có thể tiến thêm được nữa, tuy vậy cuộc đời còn nhiều cái lạ lắm…

Mới đây, tôi tìm ra quy luật của cách phân chia còn lại trong phong thủy huyền không, cách chia nhị nguyên bát vận. Không giống như tam nguyên cửu vận, nhị nguyên bát vận không đi tìm đến cái có thể chia hết cho nhau, các vận cũng không đồng đều là 20 năm, mà ví dụ như quái vận khôn là 18 năm; quái vận càn là 27 năm. Nhị nguyên bát vận cũng chẳng cần theo chặt quy tắc thiên văn cố định như tam nguyên cửu vận trên bầu trời, mà nhị nguyên bát vận, hệ thống phân chia thời gian của huyền không đại quái của Trung Quốc lại có tư tưởng khoáng đạt y như hệ thống lịch của người Maya và Aztec. Đôi khi tôi gọi sự khoáng đạt này là sự dũng cảm, vì tam nguyên cửu vận- chính ra có cái gốc gác của nền văn minh Ai Cập; và nhị nguyên bát vận- lại không thấy cái bóng dáng này, hay chính xác ra là thoát khỏi cái bóng của văn minh Ai Cập- bởi sự miêu tả các hành tinh không theo luật lệ gì theo lẽ thông thường, mà bản chất là: ”XUYÊN TOÀN BỘ THẤT TINH VỀ 1 MỐI’.

Muốn xuyên toàn bộ mà thoát khỏi cái bóng của nhật nguyệt, thì bước đầu là phân tích quy luật của nhật nguyệt đến chính xác vài số sau dấu phẩy; rồi sau đó phá con số này để tìm con số tương đối khác xâu chuỗi được thất tinh, nếu thêm la hầu kế đô sẽ là cửu tinh. ‘XUYÊN THẤU ĐƯỢC TOÀN BỘ CỬU TINH’ là cái mà xuất hiện trong nhị nguyên bát vận của huyền không đại quái, là bản chất của hệ thống phân chia thời gian này.

  • Tam nguyên cửu vận nói về cái lớn, về tứ chính, cái khó thay đổi, cái chia đều và theo chu kỳ, cái lấy chậm mà lớn, tĩnh làm trọng tâm, cái lấy cương để đấu với cương, hoặc nhu để đấu với nhu.
  • Nhị nguyên bát vận nói về cái nhỏ, về tứ ngung, cái có thể thay đổi luồn lách thích nghi với thời thế, cái lấy nhanh và dịch chuyển làm trọng tâm, cái lấy nhu để khắc cương.

 

Representación del calendario Maya por medio de engranes

Kiến thức cơ bản về huyền không đại quái

 

Vậy, yếu tố nào có thể kết nối 2 hệ thống phân chia thời gian khổng lồ này: nhị nguyên bát vận và tam nguyên cửu vận. Vẫn rất lạ là cuộc đời lại cho tôi 1 đáp án, đúng là có thật, 1 ngôi sao A duy nhất vốn tưởng là đóng vai phụ trên bầu trời, lại trở thành cầu nối để biến hệ thống tam nguyên khớp chặp với nhị nguyên. Ngôi sao A này tôi để các bạn tự tìm tòi, tôi đưa ra 1 gợi ý: trong nhị nguyên bát vận, quái vận Đoài có thời gian là 24 năm, quái vận Cấn có thời gian là 21 năm; 2 số năm này không có nhiều ý nghĩa thiên văn, nhưng khi phối quái Đoài và Cấn ra 45 năm, thì 45 năm có ý nghĩa thiên văn đấy. Nó là manh mối để tìm ra A là ngôi sao gì. Ngôi sao A, với chỉ là 1 ngôi sao lẻ loi trên bầu trời, lại là chất gắn kết hệ thống bánh xe thiên cơ khổng lồ chi phối tam nguyên cửu vận và nhị nguyên bát vận chạy song song và vẫn khớp nhau; nó không phải là 1 ngôi sao luôn tạo ra cát lợi, mà cát và họa song hành, làm tốt thì được tốt, làm xấu chắc chắn phải gặp họa.

Bài viết này nói về những điều rất khó của thiên pháp, mong các bạn đọc như với tâm thế thể hiện niềm vui về sự lạ kỳ không thể tưởng tượng được về vẻ đẹp của tạo hóa.

 

 

Trống đồng Ngọc Lũ 1- (Phần 2)

1.Điểm tối quan trọng của trống đồng là: Tôn thờ mặt trời, mặt trời ở giữa, tỏa ra 14 tia. Và khi phân tích hình học của các tia này, tôi nhận ra về tính khẳng định vĩ độ, lãnh thổ tại nơi tạo ra chúng. Các tia trên sẽ luôn luôn tạo ra tỉ lệ về tứ giác mặt trời tại 1 vĩ độ cụ thể , đoạn code trong tính toán chúng miêu tả dưới đây (code tham khảo, chỉ đúng trong dải vĩ độ 15-23, lên vĩ độ cao có sai số lớn):
…..date_obj = datetime.datetime.strptime(solstice_date, “%Y-%m-%d”)
day_of_year = date_obj.timetuple().tm_yday
declination = math.radians(23.45) * math.sin(math.radians(360 * (284 + day_of_year) / 365))
cos_phi = -math.tan(math.radians(lat)) * math.tan(declination)
phi_sunrise = math.acos(cos_phi)
phi_sunset = -phi_sunrise
sunrise_time = datetime.datetime.strptime(solstice_date + ” 00:00:00″, “%Y-%m-%d %H:%M:%S”) + datetime.timedelta(hours=math.degrees(phi_sunrise) / 15)
sunset_time = datetime.datetime.strptime(solstice_date + ” 00:00:00″, “%Y-%m-%d %H:%M:%S”) + datetime.timedelta(hours=math.degrees(phi_sunset) / 15)
cos_azimuth_sunrise = (math.sin(declination) – math.sin(math.radians(lat)) * math.cos(phi_sunrise)) / (math.cos(math.radians(lat)) * math.sin(phi_sunrise))
cos_azimuth_sunset = (math.sin(declination) – math.sin(math.radians(lat)) * math.cos(phi_sunset)) / (math.cos(math.radians(lat)) * math.sin(phi_sunset))
azimuth_sunrise = math.degrees(math.acos(cos_azimuth_sunrise))
azimuth_sunset = 360 – math.degrees(math.acos(cos_azimuth_sunset))
a=90-azimuth_sunrise
b=math.tan(math.radians(a))
# Print the results
print(“góc lệch là:”,a)
print(f”tỉ lệ chiều dài/chiều rộng:”,1/b)
2. Đã nói về Mặt Trời tại vòng trong, thì vòng ngoài sẽ nói về Mặt Trăng với 18 nhóm hình chim lạc ứng với chu kỳ saros hơn 18 năm một chút. Hoặc nếu xét trong 1 năm quan sát mặt trời, thời cổ đại với 2 đại diện lớn là Ai Cập và người da đỏ Maya vẫn thường sử dụng công thức 360 ngày là 1 năm dương lịch + thêm hơn 5 ngày 1 chút không tính trong công thức đó, gọi là 5 ngày không được xét trong lịch nhưng vẫn được tính thực tế để bộ lịch dương lịch vẫn khớp với chuyển động của mặt trời.
Nhật nguyệt là đủ kết cấu âm dương, các vòng còn lại ở giữa có vẻ là miêu tả giá trị văn hóa, lối sống theo chu kỳ của nhật nguyệt.

Kiến trúc cổ đại và thiên văn học

Các công trình cổ đại thường có 1 kiến thức rất đồ sộ về hệ thống thiên văn, phong thủy, huyền thuật, ẩn giấu tầng tầng lớp lớp trong quá trình chọn lựa, thiết kế, xây dựng nên. Thường thì các công trình được xây dựng 1 là phải dựa vào lực địa, không thì phải dựa vào lực thiên, 3 thì có thể dựa vào lực thủy. 1 trong 3: thiên, địa, thủy thường phải chọn lấy 1. Trong bài viết này, các công trình trên có xu hướng chọn địa mạch làm vị(tất cả các công trình trên đều chọn tại nơi đất rất mạnh, coi như đây là yếu tố tất nhiên và phần ‘ĐỊA’ không được đề cập trong bài viết này), còn hướng— thì sẽ chọn ‘THIÊN’. Vậy thiên pháp trong các công trình này được thể hiện như thế nào, dựa trên quy luật gì, tôi đã dày công cố gắng tìm hiểu các công trình trọng yếu, nổi tiếng, tuy còn thiếu nhiều nhưng cũng là các công trình trọng điểm của nền văn minh nhân loại, và bản thân dân tộc Kinh chúng ta cũng vẫn sử dụng các kiến thức này 1 cách mềm dẻo, ẩn tàng- nằm trong câu: xây nhà ba gian, làm nhà hướng nam, và địa mạch Tý- Ngọ hoặc tam hợp của nó.

Chúng ta sẽ thống nhất 1 số định nghĩa trong bài viết này rằng các công trình trọng điểm tâm linh trên thế giới sẽ gồm 2 điểm cần phải quan tâm khi xét về yếu tố ‘THIÊN’: 1. Điểm trung tâm của công trình trung tâm đó- hay gọi theo cách của tôi là điểm trọng yếu.(thường là trung tâm của nhà, đỉnh của vòm, hoặc nơi trống thoáng chính giữa công trình- đại diện cho không akasha- âm- chủ- nội lực)

2. Điểm để tạo sự kết nối thiên văn- hay gọi đơn giản theo cách của tôi là điểm thiên văn.(thường là 1 hoặc 2 hoặc cả 4 cột của công trình- đại diện cho tứ đại đất nước gió lửa- dương- khách- ngoại lực)

Điểm trọng yếu và điểm thiên văn khi nối lại sẽ tạo ra chiều dài và chiều rộng của quần thể đó, mà nó tạo ra 1 tỉ số. Tỉ số này là tỉ số linh động vì công thức tính ra nó phụ thuộc vào vĩ độ của các công trình tâm linh trên. Nó khác với tỉ số cố định như phi, pi, e. v.v.

Đầu tiên, Với angkor wat,Angkor wat đại diện cho đế chế khmer sử dụng hệ thống kiến trúc, phong thủy vastu và tâm linh văn hóa hindu. Do đó, hướng của đền thờ thần Vishnu có hướng chính tây theo thiên văn (true west).  Ta có: Điểm trọng yếu là điểm chính giữa của tòa tháp trung tâm của đền. Điểm thiên văn là tòa tháp phía bên trái của đền nhìn ra, phần cửa phía tây của đền.

Với đế chế la mã, tòa constantinope có điểm trọng yếu là chính giữa vòm của tòa nhà. Điểm thiên văn là cạnh tường hướng tuất của cửa vào chính hướng mùi, điểm thiên văn còn lại lại nằm ở góc tường của tòa ở hướng dần.

Khi nhìn về nền văn minh của người hindu, như đền taj mahan ở trên, ta thấy điểm trọng yếu là cửa chính của đền; điểm thiên văn là các ngã tư kết nối ở phần sân hướng nam của quần thể đền.

Người Việt Nam cũng có kiến thức như vậy, với mô hình căn bản nhất nhưng bị lệch đi vài độ, còn tỉ số thì vẫn tương ứng với công thức chung áp dụng cho các vị trí có vĩ độ ở Bắc bán cầu. Với điểm trọng yếu là giữa của điện kính thiên, và điểm thiên văn là 4 cột ở góc của điện. Mô hình điểm trọng yếu ở chính giữa và 4 cột ở 4 góc nhà là mô hình căn bản nhất, đơn giản và lâu đời nhất.

Vơí thánh địa Mecca của người hồi giáo, chúng ta có điểm trọng yếu là phiến đá đen black stone kaaba, điểm thiên văn là rìa tường hướng tuất của thánh địa. Thánh địa mecca được thiết kế như 1 dải quạt từ hướng bắc đến hết tây bắc, và chuôi quạt là điểm trọng yếu phiến đá đen là 1 thiết kế rất đặc biệt, thiết kế dải quạt hình tam giác là rất hiếm thấy.

Với toà vatican, chúng ta nhận thấy điểm trọng yếu là obelisco nằm ở giữa quảng trường, điểm chính giữa của hình tròn. Điểm thiên văn là điểm kết thúc của 2 dãy nhà hình cánh cung, hướng chính là hướng đông(mão).

Với tòa washington capital của nước Mỹ, điểm trọng yếu nằm ở chính giữa của đỉnh vòm, điểm thiên văn là 2 góc tường phía Đông của tòa chính giữa.

 

 

Hệ thống tọa độ thiên văn và ứng dụng trong địa mạch

Hiện nay, trong thiên văn chủ yếu sử dụng 2 hệ tọa độ phổ biến là hệ tọa độ xích đạo và hoàng đạo.
1. Hệ tọa độ hoàng đạo là một hệ tọa độ thiên văn sử dụng mặt phẳng hoàng đạo làm mặt phẳng tham chiếu.
Mặt phẳng hoàng đạo là mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất khi quay quanh Mặt Trời. Hình chiếu của mặt phẳng quỹ đạo Trái Đất lên thiên cầu vẽ thành đường hoàng đạo.Hệ tọa độ này thuận tiện khi xác định vị trí của các hành tinh và các thiên thể trong Hệ Mặt Trời và chia được 12 cung hoàng đạo mà thiên văn hay chiêm tinh đều sử dụng phổ biến.
2. Hệ tọa độ xích đạo là hệ tọa độ thiên văn được sử dụng nhiều cho các quan sát bầu trời từ Trái Đất.
Nó là hệ tọa độ gắn bó chặt chẽ với hệ tọa độ địa lý, vì ở đây người ta sử dụng chung một mặt phẳng quy chiếu và chung các cực. Hình chiếu của xích đạo Trái Đất lên thiên cầu được gọi là thiên xích đạo hay xích đạo trời. Tương tự, chiếu các cực địa lý lên thiên cầu ta sẽ có thiên cực bắc và thiên cực nam.
Tuy nhiên, 2 hệ tọa độ này rất khó ứng dụng vào 1 môn đặc thù là phong thủy, nơi cần phải làm rõ được vị trí của 1 hành tinh trong mặt trời trên bầu trời khi chiếu xuống đến mặt đất thì nằm tại hướng chính xác đến độ/ phút là vị trí nào, do đó có 1 hệ tọa độ ít phổ biến hơn nhiều là hệ tọa độ chân trời đã được sử dụng đầu tiên ghi chép được là 3000 năm trước, và gần như bị lãng quên trong vài trăm năm gần đây tại châu âu khi hệ tọa độ 12 cung hoàng đạo quá tiện lợi trong tính toán thiên văn. Hệ tọa độ chân trời, do độ khó và phức tạp khi chuyển đổi từ hệ tọa độ xích đạo và hoàng đạo, mãi đến khoảng 30 năm gần đây khí phần mêm máy tính tính thay mới trở lại phổ biến để hình thành lại cách tính thời cổ đại về ý nghĩa của năng lượng các hành tinh chiếu theo 360 độ phương hướng nằm ngang.
3. Hệ tọa độ chân trời ứng dụng trong phong thủy phương đông và phong thủy địa mạch
Ứng dụng của hệ tọa độ này là rất khả quan khi tính toán được, khi thiếp lập 1 lá số của 1 người, nó là vị trí các hành tinh theo hệ tọa độ hoàng đạo, do đó khi chuyển đổi xong từ hệ hoàng đạo sang hệ chân trời. Ta có thể biết vị trí những hành tinh tương đối tốt (trong lá số) với người đó nằm tại chính xác tại hướng nào, và những hành tinh không tốt nằm tại hướng nào. Từ đó, ứng dụng trong nội khí căn nhà, khi vẽ hướng các hành tinh trong 1 căn nhà, ta sẽ tập trung những nơi quan trọng trong nhà như bàn thờ tại các nơi có sao Jupiter mộc tinh, Mo mặt trăng (mặt trăng mạnh, ở vị trí tốt trong lá số); những nơi để học tập và làm việc sẽ theo sao Me thủy tinh (không bị sao xấu chiếu aspect) hoặc Ju mộc tinh; đặc biệt nếu như các hành tinh nằm tại các vị trí mạnh và thuận lợi như dig bala, nằm tại cung chủ tinh hay vượng, tướng; nằm tại 4 hướng tứ chính cardinal Nam, Bắc, Đông, Tây v.v. Nên Tránh đặt những vị trí quan trọng tại nơi có sao xấu chiếu qua như Saturn thổ tinh, Trục Rahu la hầu – Ketu kế đô và Mar hỏa tinh.
Với cách cục ngoài nhà, có thể xác định hướng và vị trí của địa mạch đi vào nhà này theo trục nào ứng với các thành viên trong nhà để tìm cách ứng xử. Ví dụ mạch hướng nhâm đổ về có thể kích hoạt các sao có trục Bắc- Nam với 1 người có lá số mà các hành tinh xấu, đặc biệt tù tử nằm ở vị trí Bắc- Nam của lá số. Tương tự cách tính như vậy với vị trí thủy, công trình lớn trong bán kính 100m v.v. Hoặc, với 1 người trong giai đoạn nào đó cần phải đi đến 1 vùng đất khác để lấy lại cân bằng thì nên đi theo trục nào v.v.
Các bạn có thể tham khảo về hệ tọa độ chân trời bằng tiếng anh tại đây:
Horizontal coordinate system
Horizontal coordinates use a celestial sphere centered on the observer. Azimuth is measured eastward from the north point (sometimes from the south point) of the horizon; altitude is the angle above the horizon.
The horizontal coordinate system, also known as topocentric coordinate system, is a celestial coordinate system that uses the observer’s local horizon as the fundamental plane. Coordinates of an object in the sky are expressed in terms of altitude (or elevation) angle and azimuth.
Definition
This celestial coordinate system divides the sky into two hemispheres: the upper hemisphere, where objects above the horizon are visible, and the lower hemisphere, where objects below the horizon cannot be seen, since the Earth obstructs views of them. The great circle separating the hemispheres is called the celestial horizon, which is defined as the great circle on the celestial sphere whose plane is normal to the local gravity vector.[1] In practice, the horizon can be defined as the plane tangent to a still liquid surface, such as a pool of mercury.[2] The pole of the upper hemisphere is called the zenith. The pole of the lower hemisphere is called the nadir.[3]
The following are two independent horizontal angular coordinates:
Altitude (alt.), sometimes referred to as elevation (el.), is the angle between the object and the observer’s local horizon. For visible objects, it is an angle between 0° and 90°.
Alternatively, zenith distance may be used instead of altitude. The zenith distance is the complement of altitude, so that the sum of the altitude and the zenith distance is 90°.
Azimuth (az.) is the angle of the object around the horizon, usually measured from true north and increasing eastward. Exceptions are, for example, ESO’s FITS convention where it is measured from the south and increasing westward, or the FITS convention of the Sloan Digital Sky Survey where it is measured from the south and increasing eastward.
The horizontal coordinate system is sometimes called other names, such as the az/el system,[4] the alt/az system, or the alt-azimuth system, from the name of the mount used for telescopes, whose two axes follow altitude and azimuth.[5]
General observations
A sunset over the horizon of the Mojave Desert, California, USA
The horizontal coordinate system is fixed to a location on Earth, not the stars. Therefore, the altitude and azimuth of an object in the sky changes with time, as the object appears to drift across the sky with Earth’s rotation. In addition, since the horizontal system is defined by the observer’s local horizon, the same object viewed from different locations on Earth at the same time will have different values of altitude and azimuth.
Horizontal coordinates are very useful for determining the rise and set times of an object in the sky. When an object’s altitude is 0°, it is on the horizon. If at that moment its altitude is increasing, it is rising, but if its altitude is decreasing, it is setting. However, all objects on the celestial sphere are subject to diurnal motion, which always appears to be westward.
A northern observer can determine whether altitude is increasing or decreasing by instead considering the azimuth of the celestial object:
If the azimuth is between 0° and 180° (north–east–south), the object is rising.
If the azimuth is between 180° and 360° (south–west–north), the object is setting.
There are the following special cases:
All directions are south when viewed from the North Pole, and all directions are north when viewed from the South Pole, so the azimuth is undefined in both locations. When viewed from either pole, a star (or any object with fixed equatorial coordinates) has constant altitude and thus never rises or sets. The Sun, Moon, and planets can rise or set over the span of a year when viewed from the poles because their declinations are constantly changing.
When viewed from the Equator, objects on the celestial poles stay at fixed points on the horizon.
Note that the above considerations are strictly speaking true for the geometric horizon only. That is, the horizon as it would appear for an observer at sea level on a perfectly smooth Earth without an atmosphere. In practice, the apparent horizon has a slight negative altitude due to the curvature of Earth, the value of which gets more negative as the observer ascends higher above sea level. In addition, atmospheric refraction causes celestial objects very close to the horizon to appear about half a degree higher than they would if there were no atmosphere.

Nền tảng toán học của nhị thập bát tú.

Nhị thập bát tú được ứng dụng nhiều trong việc chọn ngày trong dân gian, tuy nhiên nhị thập bát tú của trung hoa có khác so với nơi sinh ra hệ thống lý thuyết của nhị thập bát tú (nashaktras)là từ nền văn minh Ấn Độ. Tại đây, nhị thập bát tú = 27 sao + thêm 1 sao ảo (sao abhijit). 27 sao này được xếp khít vào vòng zodiac 12 cung hoàng đạo với mỗi cung hoàng đạo = 2,5 sao. Trong mỗi 1 sao trong 27 sao lại chia ra làm 4 phần gọi là pada. Có tổng cộng 27×4=108 pada. con số 108 chúng ta có thể thấy quen thuộc trong các nền tôn giáo phương đông từ ấn độ cho đến trung hoa, trong cả phật giáo hindu giáo và đạo giáo, ý nghĩa của nó mình sẽ không giải thích ở đây, mình chỉ giới thiệu ra chứ cũng không giải thích các quy luật toán học của 108 pada trong các hình bên dưới. Chỉ cần biết rằng, tại hình 6 cũng là hình mình post từ cách đây vài tháng 108 padas này nó tương ứng với sự vận hành của số 0 từ lúc xuất hiện, chạy hết chu kỳ của đường lường thiên xích, biến mất đi và trùng sinh lại là đúng 108 số đếm. Còn tại hình 5, pada 1 tức cột đỏ số 1 khi cộng các số lại chúng ta ra quy luật 3,6,9; pada 2 thì tạo ra số 1; pada 3 thì ra quy luật 9,6,3; và pada 4 thì ra số 8. Các quy luật này của các pada là giống nhau tại mọi sao trong 27 sao và 12 cung hoàng đạo. Ví dụ: cung bạch dương aries có chòm nhị thập bát tú là Ashwini có pada 1 tức phân cung đầu tiên của Ashwini sẽ có số toán học là 3. Tương tự như vậy, các số 3,6,9 sẽ bao bọc toàn bộ 27 nashaktra. Vì sao điều này là quan trọng, ngoài việc các pada được sử dụng để xác định biểu đồ hậu vận navamsa D9 của 1 lá số, nó còn thể hiện cho luật toán học mà người xưa đã tìm ra để miêu tả về bầu trời- đến cấp độ nhỏ nhất là 108 đơn vị. Từ cơ sơ toán học của những đơn vị nhỏ nhất, ta nhanh chóng nhận ra nó trùng với cơ sở toán học của những đơn vị lớn nhất ví dụ như cơ sở của việc chia 4 hành đất nước gió lửa phân ra cho 12 cung hoàng đạo vì sao nhà 1 lại là aries lửa thì bên cạnh nó taurus bắt buộc phải là đất; từ đó mà ứng với những môn có tính chuyên ngạch hơn, nhỏ hơn như phong thủy chẳng hạn: 4 hành này hoàn toàn ăn khớp với tứ đại thủy cục của tam hợp, ứng với phân chia lưỡng phiến của các môn phong thủy huyền không, và còn rất nhiều những bí ẩn của phong thủy mà nhiều người thuộc nhiều dòng còn tranh cãi lẫn nhau hoàn toàn có thể chứng minh bằng toán học được. Các hình bên dưới mình sẽ không chứng minh chi tiết, ai thấy tin nó quan trọng thì tự phá giải, mỗi hình mình đưa lên là có dụng ý rất nhiều rồi.

Định luật 8. Vai trò của đo đạc ứng với thiên tinh

Khi các bạn đọc về khoa học kĩ thuật quân sự, đặc biệt là những mảng quan trọng nhất, có xu hướng phát triển nhất hiện nay là công nghệ radar, tàng hình và chống tàng hình, thì các bạn nếu có nghĩ về những kiến thức phong thủy hay huyền học thời xưa sẽ thấy mối liên hệ vô cùng chặt chẽ giữa chúng.
Khi tôi đọc báo và thấy những thông tin về quân sự ngày nay như: hệ thống phòng thủ chủ động trên xe tăng khi thấy tên lửa địch dẫn đường bằng lazer liền bắn ra một hỗn hợp các sợi vật liệu để đánh lạc hướng gồm: thủy tinh, nhôm, kẽm, polyme, v.v. với chiều dài các sợi bằng nửa bước sóng của sóng phát từ radar địch….
hay lớp sơn của máy bay tàng hình cần sơn nhiều lớp và các lớp có độ dày sao cho bằng một phần tư bước sóng của sóng phát ra từ radar địch…
Tất cả đều là: “nửa bước sóng”; hoặc “một phần tư bước sóng”
Nói rõ ra thì: Tất cả các vật thể khi có kích thước nhất định, hoặc cách nhau một khoảng cách nhất định bằng 1 nửa bước sóng với một vật thể phát nào đó thì chúng sẽ tương tác với sóng của vật thể phát đó.
Đó là lý do, chỉ cần biết tần số máy phát radar của địch là tìm ra cách để tàng hình trước loại máy đó (ứng với quân sự- hiện đại ngày nay) và tương tự, chỉ cần biết tần số sóng từ các hành tinh trong hệ mặt trời là cũng tìm ra khoảng cách, hoặc kích thước vật thể tương tác được với hành tinh đó (ứng với kỹ thuật lập trận, xây dựng trong phong thủy trong quá khứ).
…………………………………
Do có sự cộng hưởng harmonic, do đó, các kích thước của hai vật thể sẽ = n.lamda/2 trong đó n là số nguyên; trong khi đó để giảm cộng hưởng, hay triệt tiêu sóng thì ta lại dùng công thức =n.lamda/4 trong đó n=1,3,5,7,9,11,13v.v.v.(tức toàn số lẻ).
……………………………………
Khi nắm vững được nguyên lý về cách cộng hưởng hay triệt tiêu sóng như tôi đã phân tích ở trên, chỉ dựa trên kích thước và khoảng cách vật thể, chúng ta thử đối chiếu một cách đơn giản về thước lỗ ban. Có thể nói rằng, thước lỗ ban có áp dụng nguyên lý của sóng điện từ như tôi đã nói ở trên, và khi các bạn áp công thức đầu n*lamda/2 các bạn sẽ thấy ví dụ với thước 52,2 cm coi là hết chu kỳ 1 bước sóng, vậy nửa bước sóng của thước trên = 52,2/2= 26,1 cm. Lúc này ta xem xét phần tốt của thước nằm ở khoanh vùng đầu thước, cuối thước giữa thước với các con số 0;26,1;52,2 và cứ thế lặp lại giống như cộng hưởng harmonic tôi trình bày ở trên. Trong khi đó, khoành vùng không tốt là gì? Chính là vùng có công thức thứ 2 về giảm sóng: n*lamda/4 với n=1,3,5,7,9v.v.
…………………………………………………..
Lại đối chiếu với bài 7 tôi đã trình bày sơ bộ, các thước này trong quá khứ được sử dụng như một cách để tương ứng với lực thiên, hay cụ thể là 5 hành tinh kim tinh, thủy tinh, hỏa tinh, thổ tinh, mộc tinh và 2 ngôi sao mặt trăng và mặt trời.
tôi đối chiếu rất nhiều và nhận ra rằng, các kích thước thật sự thường được sử dụng nhiều nhất, mang tính lành và ổn định nhất nên dựa trên 4 sao chính: Mặt trời, Mặt trăng, Mộc tinh và Kim tinh. Đặc biệt là mặt trời được sử dụng vô cùng nhiều, và do đó, trận lục tinh vô tâm trận mà tôi vẫn hay sử dụng cũng dựa trên nguyên lý này, mà đôi khi cũng có thể gọi là thái dương trận.
……………………………………………..
Đến lúc này, bạn đọc có thể nhận ra rằng, khoa học từ lâu đã đo được các dải tần của các hành tinh một cách chính xác khi nghành thiên văn vô tuyến phát triển bùng nổ những năm 1940, cũng như các kĩ thuật quân sự và hàng không vũ trụ tân tiến hiện nay về cộng hưởng sóng, giao thoa sóng, triệt tiêu sóng, khi đọc được các tài liệu sóng điện từ đó và đối chiếu với các công trình tâm linh cổ đại còn sót lại đến ngày này, tôi đã tìm ra được quy luật liên kết giữa chúng và nhận ra rằng, có vẻ người xưa biết nhiều hơn chúng ta nghĩ.

Nguyên lý tam hợp của thiên văn

Định luật 9. Tính chất tam hợp của các hành tinh
khi 2 hành tinh có sự khác biệt về trọng lượng đủ lớn: khoảng trên 25 lần thì lực hấp dẫn của chúng sẽ đủ lực để tạo ra các điểm quan trọng mà tại đó, khi các mảnh thiên thạch di chuyển vào sẽ bị tích tụ lại tạo ra các đám mây thiên thạch gọi là các điểm Lagrange point. Trong hình hiển thị 5 điểm lagrange point từ L1 đến L5. Trong đó, L1,L2,L3 luôn luôn là điểm thẳng hàng với đường nối 2 hành tinh, điển hình là Mặt Trời và Mộc tinh. Và 2 điểm quan trọng nhất là điểm L4,L5 luôn luôn tạo 1 góc 60 độ so với đường thẳng nối 2 hành tinh. Trong hệ mặt trời, 2 điểm L4,L5 nổi tiếng nhất có tên gọi là Trojan đến từ sự tương tác lực hấp dẫn giữa mặt trời và mộc tinh, 2 sao lớn nhất trong hệ mặt trời. Ngoài ra, còn nhiều điểm L4,L5 quan trọng khác nên được xét đến như giữa trái đất với mặt trăng v.v.
Để hiển thị được mô hình các điểm lagrange một cách đơn giản nhất, có thể sử dụng ngôn ngữ lập trình python để chạy như sau:
#khai báo thư viện hỗ trợ
from __future__ import print_function, division
from PyAstronomy import pyasl
import numpy as np
import matplotlib.pylab as plt
# tạo trục tọa độ x,y
x, y = np.linspace(-1.5, 2, 300), np.linspace(-1.6, 1.6, 300)
xx, yy = np.meshgrid(x, y)
# lập trong hệ mặt phẳng nên z=0
z = 0
# mô hình hóa nên sử dụng tỉ lệ trọng lượng 2 hành tinh =q
q = 0.2
#giá trị q có thể thay đổi để tạo ra các phiên bản mô hình hóa dựa trên giá trị trọng trường thật của bất kỳ hành tinh nào cần tính trong hệ mặt trời. ví dụ về ảnh tại phần comment có đưa về phiên bản mô hình khi q =0.05 (Tức tỉ lệ trọng lượng giữa hành tinh lớn hơn và nhỏ hơn là 20 lần)
p = pyasl.rochepot_dl(xx, yy, z, q)
# xác định vị trí các điểm Lagrange points
l1, l1pot = pyasl.get_lagrange_1(q)
l2, l2pot = pyasl.get_lagrange_2(q)
l3, l3pot = pyasl.get_lagrange_3(q)
l4, l5 = pyasl.get_lagrange_4(), pyasl.get_lagrange_5()
l4pot = pyasl.rochepot_dl(l4[0], l4[1], l4[2], q)
l5pot = pyasl.rochepot_dl(l5[0], l5[1], l5[2], q)
# tạo ra khung hình kích thước 15×15 pixel
fig= plt.figure(figsize = (15, 15))
# Vẽ các dòng lực có cùng mức giá trị bằng hàm matplotlib.pyplot.contour với color g=green, b=blue,r =red
plt.contour(p, [l5pot*1.02, l3pot, l2pot, l1pot], colors=[‘g’, ‘c’, ‘b’, ‘r’], extent=[-1.5, 2, -1.6, 1.6])
# Lập các điểm từ L1 đến L5 lên khung hình
plt.text(l1, 0, ‘L1′, horizontalalignment=’center’)
plt.text(l2, 0, ‘L2′, horizontalalignment=’center’)
plt.text(l3, 0, ‘L3′, horizontalalignment=’center’)
plt.text(l4[0], l4[1], ‘L4′, horizontalalignment=’center’)
plt.text(l5[0], l5[1], ‘L5′, horizontalalignment=’center’)
# Lưu dữ liệu vào desktop với tên : anh.jpg
plt.savefig(“C:/Users/Administrator/Desktop/”+ ‘anh.jpg’)
#hiển thị kết quả
plt.show()
——————————–
Tính chất tam hợp của thiên, hay của địa đều được ứng dụng nhiều trong phong thủy, cũng như trong các môn nhân mệnh như chiêm tinh, tử vi mà tôi sẽ giải thích nhiều hơn trong các bài sau

Phần mềm theo dõi dữ liệu động đất- code python

from quakefeeds import QuakeFeed
import folium
from datetime import datetime
from folium.features import DivIcon

feed = QuakeFeed(“4.5”, “week”)

my_map = folium.Map( zoom_start = 13)

for i in range(len(feed)):

“”” Convert the timestamp to UTC time “””
timestamp = round (feed[i][‘properties’][‘time’]/1000)
dt_object = str(datetime.utcfromtimestamp(timestamp))+’ (UTC)’
print(i,feed.event_title(i)+ ‘ at ‘+ dt_object,[feed.location(i)[1],feed.location(i)[0]],feed.magnitude(i),feed.depth(i))

“”” Marks in terms of Pixels units “””
folium.CircleMarker(
radius=1.5**feed.magnitude(i),
location=[feed.location(i)[1],feed.location(i)[0]],
popup=feed.event_title(i)+’ at ‘+ dt_object,
color=’#3186cc’,
fill=True,
).add_to(my_map)

“”” Marks in terms of Meters units”””
folium.Circle(
radius=feed.magnitude(i),
location=[feed.location(i)[1],feed.location(i)[0]],
popup=feed.event_title(i)+’ at ‘+ dt_object,
color=’#3186cc’,
fill=False,
).add_to(my_map)

“”” Add some text to the marker “””
tooltip = feed.event_title(i)+’ at ‘+ dt_object

if (feed.magnitude(i))>5:
color=’red’
else:
color=’green’

“”” A balloon marker “””
folium.Marker([feed.location(i)[1],feed.location(i)[0]] ,
popup=feed.event_title(i)+’ at ‘+ dt_object,
tooltip=tooltip,
icon=folium.Icon(color=(color), icon=’circle’ )#icon=’info-sign’,prefix=’fa’,icon=’circle’
).add_to(my_map)

“”” Add text on the map “””
folium.map.Marker(
[feed.location(i)[1],feed.location(i)[0]] ,
icon=DivIcon(
icon_size=(18,70),
icon_anchor=(9,25),
html='<div style=”font-size: 10pt; color: white;”>%s</div>’ % float(feed.magnitude(i)),
)
).add_to(my_map)
from datetime import date

today = date.today()

direction=”D:/bandodongdat/”
direction1=”C:/Users/Administrator/Desktop/”
filepath=direction+ str(today)
filepath1=direction1+str(today)

“”” Display the map “””
my_map.save(filepath+’.html’)
my_map.save(filepath1+’.html’)